Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Một số nét văn hóa của cộng đồng qua bài ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình”

Đề bài
Tìm hiểu một số nét văn hóa của cộng đồng qua bài ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình”.
Bài làm:
Từ thuở ban sơ trên đất nước Việt Nam, ca da đã đi vào trái tim những cụ già cầm ống điếu, của những cô thôn nữ, những chàng thanh niên hay những đứa trẻ thơ tóc còn để chỏm. Hòa nhịp với cuộc sống lao động vất vả, khổ cực nhưng chan hòa tiếng hát yêu thương, ca dao nhịp nhàng cùng tiếng chày giã gạo, căng tròn trong những hạt lúa chín đầu mùa. Thời gian trôi đi cùng với những lo toan muộn phiền của cuộc sống nhưng đọng lại ở tâm hồn mỗi người Việt từ ngàn xưa những âm, những vần ca dao tâm tình, tha thiết. Cũng chính trong cuộc sống lao động ấy, tình yêu đất mẹ, tình yêu gia đình trỗi dậy, mang lại một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mang nhịp đập và hơi ấm của con tim. Quả thật, sức mạnh vô hình của ca dao là từ những cái hữu hình thêu dệt nên. Ca dao như nắm bắt được tất cả những ánh mắt, tiếng cười, những vui buồn của cuộc sống, những rung động vô cùng tinh vi của tự nhiên,… Nói một cách khác, ca dao chính là hơi thở của cuộc sống, là bầu sữa nóng nuôi dưỡng tâm hồn và là bể sâu của tình yêu và trí tuệ. Hôm qua, hôm nay và ngày mai, chắc chắn ca dao luôn là người bạn tri âm, tri kỷ không thể nào thay thế được.
Ngôn ngữ của mỗi dân tộc được hình thành và có mối quan hệ với văn hóa. Ngôn ngữ hình thành và phát triển cùng với loài người còn văn hóa là dấu mốc thể hiện giai đoạn phát triển cao của loài người. Ngôn ngữ là một thành tố quan trọng bậc nhất của văn hóa, nó ghi lại những dấu ấn văn hóa của cộng đồng mỗi dân tộc. Tùy vào từng thời kì, từng giai đoạn lịch sử khác nhau mà ngôn ngữ lại khác những hình tượng văn hóa tận sâu trong vốn tiềm thức của mình. Ở mỗi thể loại văn học, ngôn ngữ lại có những chức năng và ảnh hưởng khác nhau tới văn hóa. Thực tế lịch sử văn học đã cho thấy: những tác phẩm văn học trường tồn của một dân tộc là những tác phẩm ghi lại được những dấu ấn văn hóa của thời đại, của những cộng đồng bằng chính vốn ngôn ngữ của dân tộc đó.
Ca dao là phần phong phú nhất trong văn học dân gian. Đây cũng là phần có giá trị nhất về mặt trí tuệ, tình cảm và nghệ thuật biểu hiện. Do đặc điểm về nội dung và hình thức ngắn gọn, có vần, dễ nhớ và luôn được nhân dân vận dụng, truyền miệng qua nhiều thế hệ. Chính vì vậy, nó luôn được trau chuốt mà vẫn giữ được cái hồn, cái tình mặc dù từ ngữ có thay đổi ở một vài dị bản. Hầu hết các bài ca dao của người Việt đều ít nhiều đề cập đến những giá trị văn hóa của vùng miền, dân tộc. Ở mỗi bài, lại được cảm ở những góc độ khác nhau, điều đó sẽ mang đến những giá trị cho các tác phẩm dân gian.
Bài ca dao “Anh đi anh nhớ quê nhà” là một trong số nhiều trường hợp như vậy:
“Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương,
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.”
Bài ca dao chỉ có bốn câu và được lưu hành khá rộng rãi và tương đối thống nhất. Nói như vậy là vì cũng có một vài dị bản nhỏ về từ ngữ mà không ảnh hưởng đến chủ đề của tác phẩm. Chẳng hạn như câu một: “Anh đi anh nhớ quê nhà” có bản ghi là “Ra đi anh nhớ quê nhà”; câu thứ ba có bản ghi là: “Nhớ ai dãi nắng dầu sương”; câu 4 có bản ghi là “Nhớ ai tát nước bên đường hôm mai”.
Bài ca dao rất ngắn, lời lẽ rất giản dị, dễ hiểu và được làm theo thể thơ “lục bát” – thể thơ được coi là truyền thống của dân tộc. Thơ lục bát là thơ của Việt Nam, cũng giống như thơ Đường luật của Trung Quốc, thơ Haiku của Nhật Bản và nhiều thể thơ khác của các dân tộc trên thế giới. Nếu chọn loài cây Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn phải là cây tre; nếu chọn loài hoa Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là hoa sen; nếu chọn trang phục Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là chiếc áo dài,… cũng như thế, nếu chọn trong nền thơ ca phong phú của ta một thể thơ làm đại diện cho thơ Việt, đó hẳn phải là lục bát. Không phải bàn cãi nhiều khi có nhà nghiên cứu cho rằng: “Chừng nào “Truyện Kiều” còn, tiếng Việt chắc chắn sẽ còn…” đã cho thấy tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn của thể thơ này.
Nếu tâm hồn một dân tộc thường gửi trọn vào thi ca của dân tộc mình, thì lục bát là thể thơ mà phần hồn của dân Việt đã nương náu ở đó nhiều nhất, sâu nhất. Có thể nói, người Việt sống trong bầu thi quyển lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao duyên, than thân trách phận, tranh đấu tuyên truyền chủ yếu bằng lục bát. Và dân ta hát ru các thế hệ, truyền nguồn sữa tinh thần của giống nói cho các lớp cháu con cũng chủ yếu bằng lục bát,... Lục bát là phương tiện phổ dụng để người Việt giải tỏa tâm sự, ký thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn. Thơ dễ làm, dễ thuộc và ai cũng có thể làm cho dù là người biết chữ hay không. Một bài thơ lục bát có thể dài đến vô cũng ("Truyện Kiều" của Nguyễn Du) nhưng lại có thể ngắn đến chỉ một cặp câu với mười bốn chữ nhưng vẫn hội tụ đủ nội dung và nghệ thuật của một bài thơ. Gắn với tiếng Việt, gắn với hồn Việt, thơ lục bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này.
Qua bài thơ, ta thấy chủ thể trữ tình chính là chàng trai, lời tâm tình của chàng tưởng chừng ai cũng hiểu như nhau, chẳng có chuyện gì phải phân tích, bàn cãi nữa. Thế nhưng đọc kỹ tác phẩm và dựa trên những kiến thức nhất định về văn hóa, thực tế trong bài ca dao đã gợi ra cho ta ít nhất hai cách hiểu khác nhau rõ rệt mà chúng đều có cơ sở, lí do để tồn tại.
Cách hiểu thứ nhất nhấn mạnh vào nỗi “nhớ quê nhà” của chàng trai lúc phải đi xa hoặc đã đi xa rồi nên đã có nhiều ý kiến xếp bài ca dao vào chủ đề tình cảm quê hương đất nước.
Chủ đề “quê hương” trong văn học vốn đã có từ trước đây và luôn song hành với mỗi người Việt Nam trong những chặng đường của cuộc sống. Trong thơ văn, “Quê hương” của Giang Nam có hoa, có bướm, “có những ngày trốn học bị đòn roi”,…; “Quê hương” của Đỗ Trung Quân là “chùm khế ngọt”, là “con đò nhỏ”, là “cánh diều”, là “cầu tre nhỏ”,… còn quê hương của chàng trai xa quê trong bài ca dao này là “canh rau muống”, “cà dầm tương”, là những con người “dãi nắng dầm sương”, là ai đó “tát nước bên đường hôm nao”. Điều ấy cũng thật tự nhiên và hợp lí.
Nội dung cảm hiểu phổ biến ở đây là: lời tâm tình của chàng trai lúc đi xa, nỗi nhớ quê của chàng được biểu hiện một cách cụ thể: nhớ những món ăn bình dị của quê hương, nhớ người dân quê dãi nắng dầu sương, nhớ những kỉ niệm về người mình yêu.
Quê hương – chiếc nôi cuộc đời của mỗi con người. Đó là nơi ta cất tiếng khóc chào đời, tất cả tuổi thơ ta lớn lên từ đó. Những hình ảnh thân quen nơi quê nhà làm cho nỗi nhớ trong người đi xa càng da diết… Nỗi nhớ đầu tiên và cũng là nỗi nhớ bao trùm nhất tất cả, đó là quê nhà.
“Anh đi anh nhớ quê nhà…”, giản dị vậy thôi, “anh có một quê” một nơi sinh ra và lớn lên, có bao nhiêu kỷ niệm, khi đi xa, thì anh “nhớ” về. Những ký ức thật riêng, thật sống động ở đó, nỗi nhớ mái nhà nơi anh sinh ra, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ anh em, nhớ bạn bè. Dù tới nơi mới, có bao nhiêu mới mẻ, vui vẻ thì trong tâm khảm vẫn luôn có chỗ cho “quê nhà”. Ai cũng có một quê hương,có thể là nơi anh sinh ra mà cũng có thể là xuất phát điểm của anh tới với cuộc đời này. Khi có những thế hệ sau dù không sinh ra cùng địa điểm với anh, thì “quê” trong tâm hồn anh cũng phả vào đời sống của thế hệ mới thành điều gì đó bí ẩn, nôn nao. Quê hương đó và những kỷ niệm gắn liền đã thành một phần con người anh. Nỗi nhớ quê vừa là lẽ tự nhiên như con người luôn nhớ về những gì đã qua lại vừa đặc biệt.
Anh nhớ quê nhà và “Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”. Nỗi nhớ được cụ thể hóa thành “canh rau muống”, “cà dầm tương” vốn là những món ăn đơn sơ, dễ kiếm và thân thuộc với những người bình thường. Rau muống luộc và cà dầm với nước tương có lẽ không chỉ riêng cho người nghèo mà với mọi nhà. Tuy nhiên, với những người nghèo thì chỉ cần bát canh rau muống và quả cà, mà lại cà dầm tương đã quá là trọn vẹn. Ai đã xa quê mới cảm nhận được cái gọi là “xa quê”. Khi xa quê, người ta thường nhớ đến tất cả những gì thân quen đọng lại trong tiềm thức, từ  những món ăn đơn sơ nhưng gắn bó, những món ăn chỉ ngon khi được ăn ở quê nhà, khi được trồng ở đất quê đó và nấu theo cách của người quê đó. Ở đâu dường như cũng có rau muống, nhưng quả thật không thể so sánh được với những cọng rau muống nhỏ nhỏ, giòn ngọt, thơm thơm ở quê lớn và quê nhỏ. Ăn một bữa cơm mà có những đũa rau muống non xanh được chấm với bát nước tương tự làm có vị chua chua, lại có cái mằn mặn của cà muối và nước canh rau muống vắt thêm chút chanh mới thấu hiểu hết được những cái ngon và những cái được gọi là “sướng – khổ” của cuộc đời. “Canh rau muống, cà dầm tương” có lẽ là món ăn nông thôn miền Bắc, nhưng người của quê nào thì sẽ nhớ về những thân thương, gắn bó của riêng miền quê đó. Làm sao hiểu hết nỗi lòng những người phải xa quê vì những lý do ngoài ý muốn, càng khắc khoải hơn và đôi khi còn là những nỗi đau không vơi cạn qua ngày tháng. Ai xa quê cũng muốn điều tốt lành nhất cho quê hương mình, quê hương giữ những điều không thể mất, mà có khi cũng chẳng lấy lại được trong ký ức, ước vọng.
“Nhớ ai dãi nắng dầm sương…” diễn tả tâm hồn yêu lao động, hiểu lao động của người đi xa. Người nông dân phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, vất vả lắm mới làm ra được hạt gạo trắng ngần, thơm ngon. Đọc câu thơ này, ta như liên tưởng đến câu thơ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, xàng…” trong “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Ta cũng thấy hiển hiện đâu đó những hình ảnh của ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa – Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày – Ai ơi bưng bát cơm đầy – Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Ắt phải những người lao động, yêu lao động và trân trọng những giá trị của lao động thì mới giữ trong lòng những hình ảnh thân thuộc ấy.
Câu thơ cuối như dồn dập trào dâng nhiều nỗi nhớ, nhất là hình ảnh cô thôn nữ có đôi tay mềm mại, dịu dàng với vẻ đẹp tự nhiên được tôn lên trong lao động:“Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”.
Cách cảm, cách hiểu thứ nhất đã nêu trên quả thực không sai, tuy nhiên nó chưa thể hiện được chiều sâu của tác phẩm thơ dân gian. Đồng thời, nó cũng chưa cho thấy tâm hồn người thanh niên nông thôn Việt Nam với những nét văn hóa ẩn chứa sâu ở bên trong. Ta nên tìm đến cách hiểu thứ hai – cách hiểu nhấn mạnh vào nỗi “nhớ ai” ở hai câu cuối và coi chủ đề bài ca dao là nói về tình yêu đôi lứa.   
Nỗi nhớ quê nhà của chàng trai gắn liền với nỗi nhớ người yêu và cả hai nỗi nhớ đều chân thực, thiết tha. Đó là nội dung trực tiếp được thể hiện để qua đó chàng trai bày tỏ tình yêu đối với người bạn gái.
Với cách hiểu này thì đại từ “ai” trong hai câu cuối bài ca dao không phải chỉ người vợ mà là người bạn tình của chàng trai. Rõ ràng, ngay câu thơ đầu tiên đã cho ta những thông tin về lập luận này. Bởi vì người ta không thể xưng “anh” với mọi người, càng không thể xưng “anh” với ông bà, cha mẹ, bạn bè hay những người thân thuộc,… Vậy thì ở đây chàng trai chỉ có thể xưng hô như vậy với một trong ba đối tượng là: người em, người vợ hoặc người yêu.
Với em mà gọi bằng “ai” (ở câu cuối) là không hợp lí. Với vợ thì cũng có thể được nhưng hơi nghe có cảm giác như hời hợt và khách sáo. Như vậy “ai” (ở câu cuối) không phải là đại từ phiếm chỉ mà nó hướng đến một đối tượng cụ thể là người trong mộng của chàng trai.
Bất kì một lời văn trong các tác phẩm văn học khi được người nghệ sĩ (dân gian hay hiện đại) “dụng công” đều có sự liên quan đến ngữ cảnh của xuất hiện nó. Có thể, nó không bày ra ngay trước mắt chúng ta những câu chuyện, những hình ảnh nhưng ít nhất là với lợi thế của mình, bản thân ngôn ngữ và sự chọn lọc tinh tế của các tác giả vô hình trung đã tác động vào tư duy mỗi người và là cơ sở để tâm hồn họ bay bổng, liên tưởng một cách chân thực về câu chuyện mà họ được nghe, được đọc.
Có thể liên tưởng đến câu chuyện chàng trai trong bài ca dao đã chú ý đến cô gái nhưng chưa một lần thổ lộ, tình yêu của họ đang ở buổi ban đầu, đầy e ấp, khó nói. Giờ đây khi sắp sửa xa quê chàng trai mới mạnh dạn gặp cô gái để giãi bày tâm sự. Và dường như cô gái cũng thiết tha dò hỏi về điều đó, để xem khi đi xa chàng trai nhớ những gì và nhớ những ai. Lời thơ có lẽ rất phù hợp với hoàn cảnh ấy.
Đã có một số người phân tích cụm từ "anh đi"  và cho rằng anh đi vì nghĩa lớn, nghe theo tiếng gọi quê hương đất nước (hoàn cảnh chiến tranh, thi cử, lập nghiệp,...) là quá đà, không cần thiết, có phần gượng ép, không phục vụ cho tìm hiểu chủ đề tác phẩm. Bởi vì điều quan trọng không phải là anh đi đâu mà là cái chủ định chàng trai muốn nói.
Ở câu thứ nhất: “Anh đi anh nhớ quê nhà” nỗi nhớ của chàng trai còn chung chung, chưa cụ thể, nhưng cô gái cũng rất yên tâm và chứa chan hi vọng. Vì chàng trai xưng anh với cô gái rất ngọt ngào, thân mật. Chàng trai nói ra đi anh nhớ quê nhà và tất nhiên trong quê nhà có cả hình bóng cô gái.
Đến câu thứ hai, chàng trai cụ thể nỗi nhớ quê bằng các chi tiết “Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”. Đó là những thức ăn quen thuộc ai mà chẳng thèm chẳng nhớ. Nhưng nếu chỉ nhớ có vậy thì cô gái đang hồi hộp lắng nghe lời tâm tình của chàng chắc sẽ thất vọng lắm.
Sang câu thứ ba: “Nhớ ai dãi nắng dầu sương” cô gái không thể không liên tưởng đến mình, nhưng không thể hoàn toàn khẳng định chắc chắn là chàng trai nói nhớ mình. “Ai” trong trường hợp này có thể là một đại từ phiếm chỉ cũng có thể chỉ người con gái. Còn với chàng trai thì nói như vậy vừa kín vừa hở!
Đến câu cuối, chắc chắn đã hiểu được thái độ và diễn biến tình cảm của cô gái nên chàng trai mới nói một cách tế nhị nhưng hết sức cụ thể và xác định: “Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”. “Ai” chính là em, “hôm nao” là cái hôm mà cả hai người đều không thể nào quên khi tát nước bên đường. Câu cuối thể hiện rõ thời gian và không gian gắn với kỉ niệm của hai người. Nói như vậy vừa có tính xác định và cụ thể cao.
Cách bộc bạch và thể hiện tình cảm hết sức tài tình, vừa kín đáo, tế nhị: từ xa đến gần, từ chung đến riêng, từ phiếm chỉ đến xác định đã cho ta thấy một đặc điểm rất lớn về văn hóa giao tiếp của người Việt. Đó chính là cách nói vòng vo, dông dài, dẫn dắt mãi mới đến câu chuyện, ý định mình cần nói. Đồng thời, đại từ xưng hô trong bài ca dao cũng có sự chuyển hướng linh hoạt theo ý muốn của người đang nói. Cách xưng hô “anh” – “ai” chứng tỏ chàng trai rất e dè, thận trọng. Suốt cả bài ca dao chàng trai ở đây đã né tránh không đụng chạm đến một từ “yêu”, “thương” nào cả. Người ta e dè vì chưa biết tình cảm của đối phương dành cho mình thế nào, người ta cẩn trọng nghĩ đến hậu quả nếu không may bị từ chối cũng chính là cách tỏ tình của thanh niên nông thôn ngày trước. Ta có thể hiểu hơn về lối nói này qua cách xưng hô “em – cô ấy” của chàng trai trong bài ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình” thân thuộc.
Tất cả sự yêu thương dường như dồn vào điệp ngữ “nhớ”, được nhắc đi nhắc lại đến năm lần, mỗi lần một cung bậc, một nội dung khác nhau và càng về sau càng cụ thể, tha thiết; đồng thời điệp ngữ nghi vấn “Nhớ ai” vừa hỏi vừa tự trả lời, bộc bạch một nỗi nhớ sâu xa, kín đáo.
Người xưa đã đóng góp cho kho tàng văn học dân gian những áng thơ hay mà thật dung dị, chân thành, tha thiết biết bao. Những câu ca dao mang đậm tâm hồn dân tộc vẫn luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu. Biết thưởng thức những câu ca dao hay khiến ta thêm yêu giá trị văn hoá mà ông cha chúng ta đã chắt lọc từ cuộc sống để lại cho con cháu đời sau. Ngày nay, chúng ta được thưởng thức nhiều tác phẩm tuyệt vời trong dòng chảy của văn học nghệ thuật đương đại. Song, những câu ca dao mang đậm tâm hồn dân tộc, ngợi ca những đức tính, bản lĩnh, phẩm chất và truyền thống tốt đẹp của dân tộc vẫn luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu. Biết thưởng thức, biết yêu những làn điệu dân ca, những câu ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ ta thêm yêu cội nguồn bản sắc và những giá trị văn hoá mà ông cha chúng ta đã chắt lọc từ cuộc sống.


Không có nhận xét nào: