NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN
HỌC.
- NHÂN VẬT VĂN CHƯƠNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA NÓ TRONG TÁC
PHẨM
- PHÂN LOẠI NHÂN VẬT
- Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất
nhân vât
- Xét từ góc độ kết cấu
- Xét từ góc độ thể loại
- Xét từ góc độ chất lượng
- MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT
-----------------------------------------------------
Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con
người luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội,
những bức tranh thiên nhiên, những lời bình luận...đều góp phần tạo nên sự
phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn
học chính là việc xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc
nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của
những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng
"Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong
một sáng tác"
I. NHÂN
VẬT TRONG VĂN HỌC VÀ CHỨC NĂNG CỦA NÓ TRONG TÁC PHẨM
1. Khái niệm chung.
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay
sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên
hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm
đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám,
Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên
(như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân
xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết
hiện đại, như mình- ta trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được
hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ
văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con
người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại
gán cho nó những phẩm chất của con người.
Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một
cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn,
người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến
tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, ca cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của
G. Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của
Nguyễn Công Hoan...Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: "Trong truyện ngắn
Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người
mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô
tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc.
Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung,
nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước
lệ, có những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề
nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ
đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với
những giới thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau
dường như cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn
trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa
cười ngọc thốt đoan trang
Mây
thua nước toc, tuyết nhường màu da.
Kiều
càng sắc sảo mặn mà
So
bề tài sắc lại là phần hơn
Làn
thu thủy, nét xuân sơn
Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
Hay việc giới thiệu Hoạn Thư:
"Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói
điều ràng buộc thì tay cũng già"
gắn
liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau
của nhân vật.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại
hình nghệ thuật khác. Ơí đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu
riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí
tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các
mối quan hệ của nó.
2. Chức năng của nhân vật văn học.
Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách,
hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng
nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề
cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc
xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và
quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một
nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn
liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài
sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn
tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng
tự do, công lí...Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá
trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân nửa
phong kiên. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh
giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người...
Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện
thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá
trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ
cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống.
Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc
đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần
thiết để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài
cuộc đời (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ trong Hòn Ðất...)
nhưng cũng cần luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật
độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề
của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác
phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người
sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác
giả".
II.
PHÂN LOẠI NHÂN VẬT
Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những
nhân vật được xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những
sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết
cấu, chất lượng miêu tả..., có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo
thành các loại nhân vật khác nhau. Ðể nắm bắt được thế giới nhân vật đa dạng,
phong phú, có thể tiến hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác nhau.
1. Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật.
Có thể nói đến các loại nhân vật chính diện (nhân vật tích
cực), nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực).
Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lực
lượng chính nghĩa trong xã hội, cho cái thiện, cái tiến
bộ. Khi nhân vật chính diện được xây dựng với những phẩm chất hoàn hảo, có tính
chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang
những mầm mống lí tưởng trong cuộc sống...có thể được coi là nhân vật lí tưởng.
Ơí đây, cũng cần phân biệt nhân vật lí tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Loại
nhân vật sau là loại nhân vật được tô hồng, hoàn toàn theo chủ quan của nhà
văn. Ơí đây, nhà văn đã vi phạm tính chân thực của sự thể hiện.
Nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho lực
lượng phi nghĩa, cho cái ác, cái lạc hậu, phản động, cần bị
lên án.
Trong quá trình phát triển của văn học, trong mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau, việc xây dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu như
trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính diện và nhân
vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các nhân vật thường
được xây dựng thành 2 tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết liệt. Ở đây, hễ
là nhân vật chính diện thường tập trung những đức tính tốt đẹp còn nhân vật
phản diện thì hoàn toàn ngược lại.
Trong văn học hiện đại, nhiều khi khó phân biệt đâu là nhân
vật chính diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc miêu tả này phù hợp với quan
niệm cho rằng hiện thực nói chung và con người nói riêng không phải chỉ mang
một phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm nhiều phẩm chất thẩm mĩ khác nhau, cái nhìn
của chủ thể đối với sự vật nhiều chiều, phức hợp chứ không đơn điệu...Những
nhân vật như Chí Phèo, Thị Nỡ, Tám Bính, Năm Sài Gòn...là những nhân vật có bản
chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất của nhân vật. Bakhtin cho
rằng: cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các đặc điểm chính diện
lẫn phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái
nghiêm túc. Chính vì vậy, ở đây, sự phân biệt chính diện, phản diện chỉ có
ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân vật vào loại nào để nghiên cứu, cần phải xét
khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải chú ý đến các khuynh hướng, phẩm
chất thẩm mĩ khác nữa. Trong giai đoạn trước, những nhân vật như Kiều, Hoạn
Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả ở nhiều góc độ, với nhiều phẩm chất
khác nhau chứ không phải chỉ có một phẩm chất chính diện hoặc phản diện.
2. Xét từ góc độ kết cấu. (Tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm).
Xem xét chức năng và vị trí của nhân vật trong tác phẩm, có
thể chia thành các loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật
phụ.
Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trò quan
trọng trong việc tổ chức và triển khai tác phẩm. Ơí đây, nhà văn
thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm, quá trình phát
triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật chính, nhà văn thường nêu lên những
vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó giải quyết vấn đề, bộc
lộ cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm mĩ.
Nhân vật chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng
hiện thực và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với những tác phẩm lớn có
nhiều nhân vật chính thì nhân vật chính quan trọng nhất xuyên suốt toàn bộ tác
phẩm được gọi là nhân vật trung tâm. Trong không ít trường hợp, nhà văn dùng
tên nhân vật trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: Ðông Kísốt của
Cervantes, Anna Karênina của L. Tônxtôi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Truyện
Kiều của Nguyễn Du...
Trừ một hoặc một số nhân vật chính, những nhân vật còn lại
đều là những nhân vật phụ ở các cấp độ khác nhau. Ðó là những nhân vật
giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình diễn biến của
cốt truyện, của việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ sung cho nhân vật
chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật phụ vẫn
được các nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng với
những nhân vật khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh.
3. Xét từ góc độ thể loại.
Có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ tình, nhân
vật tự sự và nhân vật kịch. (sẽ nói rõ trong phần các loại thể)
4. Xét từ góc độ chất lượng miêu tả.
Có thể phân thành các loại: nhân vật, tính
cách, điển hình.
Nhân vật là những con người nói chung được miêu
tả trong tác phẩm. Ơí đây, nhà văn có thể chỉ mới nêu lên
một vài chi tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động...cũng có thể miêu tả kĩ và đậm
nét.
Tính cách là nhân vật được khắc họa với một
chiều sâu bên trong. Nó như một điểm qui tụ mà từ đó có thể
giải thích được mọi biểu hiện muôn màu, muôn vẻ sinh động bên ngoài của nhân vật.
Ðiển hình là tính cách đã đạt đến độ thực sự sâu
sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái khái
quát và cái cá thể...Nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này chỉ được áp dụng
từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau.
Ngoài
những loại nhân vật được trình bày, có thể nêu lên một số khái niệm khác về
nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. chẳng hạn, khái niệm nhân vật bé
nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân vật-con vật người trong
chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật-phi nhân vật trong các trào lưu văn học hiện đại
chủ nghĩa ở phương Tây..
III.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT
Ðể xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có
khả năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Ðiều này đòi
hỏi nhà văn phải hiểu đời và hiểu người. Nhưng có một điều không kém phần quan
trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy sao cho có sức thuyết phục
mạnh mẽ đối với người đọc. Ðây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện
pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học.
Có nhiều biện pháp khác nhau trong việc xây dựng nhân vật.
Ơí đây chỉ xét một số biện pháp chung, chủ yếu nhất: miêu tả nhân vật qua ngoại
hình, nội tâm, ngôn ngữ và hành động.
1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình.
Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục,
cử chỉ, tác phong, diện mạo...Ðây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa
nhân vật.
Nếu như văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật với
những chi tiết ước lệ, tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những
chi tiết chân thực và cụ thể sinh động. M. Gorki khuyên các nhà văn phải xây
dựng nhân vật của mình đúng như những con người sống và phải tìm thấy, nêu lên,
nhấn mạnh những nét riêng độc đáo, tiêu biểu trong dáng điệu, nét mặt, nụ cười,
khóe mắt...của nhân vật.
Ngoại hình nhân vật cần góp phần biểu hiện nội tâm. Ðây cũng
chính là sự thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì
vậy, khi tính cách, đời sống bên trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên
ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo.
Khi xây dựng ngoại hình nhân vật, nhà văn cần thể hiện những
nét riêng biệt, cụ thể của nhân vật nhưng qua đó, người đọc có thể nắm bắt được
những đặc điểm chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng lớp, thời
đại...Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà văn
bao giờ cũng chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa nhân vật.
2. Miêu tả nhân vật qua biểu hiện nội tâm.
Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc
cuộc sống bên trong của nhân vật. Ðó là những tâm trạng, những suy nghĩ, những
phản ứng tâm lí... của nhân vật trước những cảnh ngộ, những tình huống mà nó
gặp phải trong cuộc đời.
Trong
quá trình phát triển của lịch sử văn học, việc thể hiện nhân vật qua nội tâm
ngày càng có vai trò quan trọng. Trong văn học Việt Nam, so với các giai đoạn
trước, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Tác phẩm
chứng tỏ Nguyễn Du có khả năng nắm bắt một cách tài tình những ý nghĩ, tình cảm
sâu kín của nhân vật và diễn tả nó một cách sinh động.
Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc nội tâm góp phần rất lớn tạo
nên sức sống của nhân vật. Nói như L. Tônxtôi: "Mục đích chính của nghệ
thuật...là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn
không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được". Ðể làm được điều đó,
nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những biểu
hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật.
3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật.
Khái niệm ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ những lời nói của nhân
vật trong tác phẩm. Lời nói đó phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân, trình độ văn
hóa, tư tưởng, tâm lí, thị hiếu...Ðằng sau mỗi câu câu nói của mỗi con người
đều có lịch sử riêng của nó. Sêđrin cho rằng: "Từ cửa miệng một người nói ra
không hề có lấy một câu nào mà lại không thể truy nguyên đến cái hoàn cảnh
đã khiến cho nó xuất hiện...Trong cuộc sống, không thể có những hành động,
những câu nói mà đàng sau lại không có một lịch sử riêng". Quả là trong
cuộc sống không thể có những người nói hoàn toàn giống nhau, vì vậy nhà văn
cần phát hiện những nét riêng của ngôn ngữ nhân vật để thể hiện trong tác phẩm.
Trong các tác phẩm tự sự nói chung, lời nói của nhân vật
thường chiếm tỉ lệ ít hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng
thể hiện sinh động và khêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách
của nhân vật. Trong đoạn báo ân, báo oán của Truyện Kiều, mặc dù đang hồn lạc
phách xiêu, Hoạn Thư vẫn biết lựa điều kêu ca:
Rằng:
Tôi chút dạ đàn bà
Ghen
tương thì cũng người ta thường tình
Nghĩ
cho khi các viết kinh
Ðến
khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng, riêng những kính yêu
Chồng
chung, ai dê, ai chiều cho ai
Trót
đà gây việc chông gai
Cũng
nhờ lượng bể tha bài nào chăng?
Những lời nói trên hoàn toàn phù hợp với con người khôn
ngoan, thông minh, lanh lợi, của Hoạn Thư.
Trong các trào lưu văn học hiện thực, việc cá thể hóa nhân
vật qua ngôn ngữ nhân vật được nhà văn đặc biệt quan tâm và được thực hiện bằng
nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà văn có thể để cho nhân vật lặp đi lặp lại
nhiều lần một số từ hoặc một số câu mà nhân vật thích (Biết rồi, khổ lắm, nói
mãi của cụ cố Hồng trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), có thể để nhân vật
sử dụng một số từ địa phương, từ nước ngoài, cách phát âm sai...nhưng dù sử
dụng cách nào, ngôn ngữ của nhân vật cũng phải có sự chọn lọc nhằm đạt đến sự
thống nhất giữa cá thể hóa và khái quát hóa, đồng thời cũng phải phù hợp với
hoàn cảnh và tính cách của nhân vật.
4. Miêu tả nhân
vật qua hành động
Hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật. Ðây là
phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì việc làm của
mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lí tưởng,
phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của người đó. Hơn
nữa, trong các tác phẩm tự sự, tính cách nhân vật không phải ngay từ đầu đã
được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có tác dụng bộc lộ quá trình phát
triển của tính cách và thúc đẩy sự diễn biến của hệ thống cốt truyện...Thông qua
các mối quan hệ, sự đối xử giữa các nhân vật trong những tình huống khác nhau,
người đọc có thể xác định được những đặc điểm, bản chất của nhân vật.
Thông thường, khi miêu tả hành động nhân vật, nhà văn thường
kết hợp với những biểu hiện nội tâm tương ứng vì đằng sau mỗi hành động, bao
giờ cũng có một tâm trạng hoặc một động cơ nào đó. Dùng nội tâm để lí giải hành
động, sử dụng hành động để làm sáng tỏ nội tâm là một hiện tượng phổ biến trong
việc miêu tả nhân vật.
Trên
đây là những biện pháp chung nhất trong việc xây dựng nhân vật. Ngoài những
biện pháp trên, nhà văn còn có thể khắc họa nhân vật thông qua việc đánh giá
của các nhân vật khác trong tác phẩm, thông qua việc mô tả đồ dùng, nhà cửa,
môi trường xã hội, thiên nhiên...mà nhân vật sinh sống. Ở những tác phẩm tự sự,
ngôn ngữ người kể chuyện là một yếu tố rất quan trọng trong việc bộc lộ, miêu
tả và đánh giá nhân vật.
Việc phân biệt các biện pháp xây dựng nhân vật như trên chỉ
có tính chất tương đối. Trong thực tế, các biện pháp này nhiều khi không tách
rời mà gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì vậy, nhiều khi rất khó chỉ ra các biện pháp
xây dựng nhân vật dưới một hình thức thuần túy và độc lập. Một điều cũng cần
lưu ý là, nắm bắt các biện pháp trên đây cũng chỉ là nhằm mục đích hiểu một
cách đầy đủ và chính xác về nhân vật trong tác phẩm văn học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét