CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC
PHẨM VĂN HỌC.
- CỐT TRUYỆN
- Cốt truyện và cơ sở của cốt truyện
- Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật qua
các giai đoạn lịch sử văn học
- Các thành phần chính của cốt truyện
- KẾT CẤU
-----------------------------------------------------
Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác
phẩm văn học mà chỉ tồn tại trong những tác phẩm thuộc loại tự sự (tiểu thuyết,
truyện vừa, truyện ngắn, truyện thơ...), kí và các tác phẩm kịch. Trong một số
tác phẩm thuộc loại kí, không có yêu cầu xây dựng cốt truyện một cách chặt chẽ.
Loại tác phẩm trữ tình không có yếu tố cốt truyện vì tác phẩm trữ tình chủ yếu
thể hiện trực tiếp tâm trạng, tình cảm, ý nghĩ cảm xúc...của tác giả, nó không
đòi hỏi nhà văn phải xây dựng những sự kiện, biến cố, hành động thành một hệ
thống liên tục làm cơ sở cho sự triển khai các tính cách.
I. CỐT
TRUYỆN
1. Cốt truyện và cơ sở của cốt trụyên
1.1.1. Khái niệm chung.
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố,
hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại
giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư
tưởng của tác phẩm.
Cần phân biệt 2 khái niệm: cốt truyện và sườn truyện.
Thuật ngữ sườn truyện dùng để chỉ những nét bao quát nhất
của một câu chuyện, bao gồm những sự kiện chính, những biến cố chủ yếu cắm mốc
cho sự phát triển của cốt truyện. Nó có thể được vay mượn từ nước này sang nước
khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác trong quá trình giao lưu văn hóa. Dĩ
nhiên sự mô phỏng sườn truyện không có nghĩa là sao chép của người khác mà vẫn
có một khoảng rộng rãi cho sáng tạo của người nghệ sĩ. Việc Nguyễn Du vay mượn
sườn truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân là một ví dụ
cụ thể. Sự sáng tạo ấy được thể hiện trên nhiều phương diện, từ thể loại,
kết cấu, ngôn ngữ, đến việc xây dựng nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Cũng có thể nói như vậy giữa Iphighêni của Euripidơ và Iphighêni của Racine , giữa Le Cid của
De Catro và Le Cid của Corneille.
- Nếu sườn truyện chỉ là cái khung thì cốt truyện đã là một
hệ thống biến cố, sự kiện cụ thể để diễn đạt cái khung ấy. Cốt truyện là sườn
truyện đã được chi tiết hóa, hình tượng hóa một cách cụ thể, sinh động qua một
chủ thể sáng tạo. Có thể nói cốt truyện là một cái gì độc đáo, không lặp lại,
gắn bó trực tiếp với những yếu tố khác làm cho tác phẩm văn học trở thành một
chỉnh thể nghệ thuật.
Có thể kể lại sườn truyện một cách dễ dàng nhưng khó có thể
kể lại đầy đủ cốt truyện của một tác phẩm, nhất là một tác phẩm lớn. Khi có
người đề nghị kể lại cốt truyện của một tác phẩm, L Tônxtôi cho rằng cứ đọc
toàn bộ tác phẩm sẽ khắc biết cốt truyện là gì.
1.1.2. Cơ sở chung của cốt truyện.
- Cơ sở khách quan. Ðó là xung đột xã hội. Trong
quá trình xây dựng tác phẩm, nhà văn bao giờ cũng thể hiện
trực tiếp hoặc gián tiếp những xung đột xã hội của thời đại vào tác phẩm của
mình. Vì vậy, cốt truyện mang tính lịch sử cụ thể, được qui định bởi những điều
kiện lịch sử, xã hội mà nhà văn đang sống. Chính những điều kiện lịch sử, xã
hội khác nhau đã tạo nên sự khác nhau giữa các cốt truyện trong thần thoại và
cổ tích, giữa những truyện thơ Nôm và văn học hiện đại...Dostoiepxki nhấn mạnh
vai trò của cuộc sống trong việc xây dựng cốt truyện :
"Anh
hãy nhớ lấy lời tôi: đừng bao giờ bịa ra các cốt truyện. anh hãy lấy những cái
do bản thân cuộc sống cung cấp. Không một trí tưởng tượng nào nghĩ ra được
những điều mà đôi khi cuộc sống bình thường quên thuộc nhất đưa lại. Hãy tôn
trọng cuộc sống."
Không nên tuyệt đối hóa ý kiến của Dostoiepxki nhưng rõ ràng
trong đời sống văn học, nhất là trong văn học của các trào lưu hiện thực, nhiều
cốt truyện đã được xây dựng từ chính những câu chuyện ngoài cuộc đời. Cốt
truyện của những tác phẩm Bà Bovary của Flobert, Ðỏ và đen của Standhal. Nhiều
cốt truyện của Tsêkhôp, L. Tônxtôi, Dostoiepxki ...thường dựa vào những câu
chuyện có thật ngoài cuộc đời và trên báo chí...Ở Việt Nam, ta có thể kể đến
cốt truyện của các tác phẩm Ðào kép mới của Nguyễn Công Hoan, Chí phèo của
Nam Cao, Ðất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Hòn Ðất của Anh Ðức, Người
mẹ cầm súng của Nguyễn Thi...
- Cơ sở chủ quan.
Xung
đột xã hội mới chỉ là cơ sở khách quan của cốt truyện vì vậy không thể đồng
nhất xung đột xã hội với cốt truyện. Khi nói đến cốt truyện, cần chú ý rằng, đó
luôn luôn là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ. Thông qua cốt truyện, nhà văn
vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện tâm hồn, tình cảm và sự đánh
giá chủ quan của họ đối với cuộc sống. Vì vậy, không thể bê nguyên xi những
chuyện có thật ngoài cuộc đời vào tác phẩm. Những xung đột xã hội phải được
đồng hóa một cách có nghệ thuật nhằm loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, thứ yếu
để xây dựng cốt truyện theo hướng điển hình hóa. Vì vậy, cùng xuất phát từ một
xung đột xã hội giống nhau, những nhà văn khác nhau lại xây dựng những cốt
truyện khác nhau nhằm thể hiện quan điểm, thái độ, ý đồ tư tưởng, phong cách
nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn đối với cuộc sống. Những xung đột xã
hội giữa nông dân, địa chủ, quan lại được thể hiện qua nhiều cốt truyện khác
nhau trong các tác phẩm của các nhà văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,
Nguyên Hồng ...là những thí dụ cụ thể.
Quá trình xây dựng cốt truyện là một quá trình lao động phức
tạp và gian khổ. Timôfiép có nhận xét về quá trình xây dựng cốt truyện của L.
Tônxtôi như sau:
"Tất cả các cốt truyện của Tônxtôi đều được thai nghén
nhiều năm và mỗi cốt truyện đều có một lai lịch phức tạp và một số phận
riêng của nó. Tônxtôi lo lắng về các cốt truyện, giận dỗi đối với chúng như
người sống vậy, đôi khi ông chán, mệt mỗi vì chúng, vì sự vật lộn với tài liệu
và ngôn từ để không ngừng hoàn thiện từng cốt truyện, từng tác phẩm. Trong đầu
óc thiên tài của ông, trong các phòng thí nghiệm tuyệt diệu ấy, bao giờ cũng có
nhiều cốt truyện luôn luôn sống và vật chọi với nhau, làm cho ông phải lần lượt
chú ý tới chúng lúc nhiều hơn, lúc ít hơn".
2. Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật qua các giai
đoạn lịch sử văn học.
Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật được thể hiện
khác nhau trong quá trình phát triển của lịch sử văn học. Nhìn chung, có
thể chia làm 2 thời kì lớn. Trong văn học phương Tây, thời kì đầu bao gồm văn
học Hy La đến văn học Trung đại. Thời kì 2 đánh dấu bằng văn học thời phục hưng
nhưng được thể hiện rõ nét nhất là từ thế kỉ 18 trở về sau. Trong văn học Việt
Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là tác phẩm của thời kì đầu nhưng
đồng thời cũng có những yếu tố đánh dấu cho sự mở đường của thời kì sau.
Thời kì này chỉ thực sự mở đầu từ thế kỉ 20.
1.2.1. Trong thời kì thứ nhất. Cốt truyện được coi là yếu tố
đặc biệt quan trọng,
là nơi xuất phát và quyết định của sự sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn sáng tác là
sáng tác cốt truyện và người thưởng thức chủ yếu là thưởng thức cốt truyện. Nhà
văn chưa thể sáng tác được nếu chưa có được một cốt truyện hấp dẫn. Ơí đây, cốt
truyện qui định và chi phối tính cách. Nhà văn chưa xây dựng được tính cách có
sự phát triển hợp với logic đời sống mà chỉ dùng nó để triển khai cho hệ thống
biến cố của tác phẩm.
1.2.2. Trong thời kì thứ hai. Vai trò của cốt truyện và tính cách hoàn toàn
thay đổi. Cốt truyện không còn giữ vai trò chủ yếu mà thay vào đó là
tính cách. Chính tính cách quyết định cho sự diễn biến của cốt truyện. trong
Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Tô Hoài viết:
"Một sáng tác mà ta có thể thêm vào hay bớt ra bao
nhiêu cũng được là một sáng tác hỏng. Vì không thể nào kiểm tra chặt chẽ
được khi vị trí của nhân vật đã phải rút xuống hàng dưới cốt truyện. chỉ có
nhân vật mới kiểm tra được cốt truyện, nhân vật mới có quyền phân phối ý chính,
ý phụ.".
Phêđin
cũng có phát biểu tương tự:
"Trong việc xây dựng cốt truyện, nên xuất phát từ tính
cách. Các nhân vật tạo ra cốt truyện chứ không phục tùng cốt truyện".
Trong quá trình xây dựng tác phẩm, những nhà văn trong thời
kì này thường đặt tính cách vào hoàn cảnh nên tính cách phong phú, đa dạng và
luôn phát triển theo sự phát triển của hoàn cảnh. Nhà văn không ép nhân vật vào
cốt truyện định trước của mình. Tônxtôi kể lại rằng khi viết chương miêu tả tâm
trạng của Vrônxki sau cuộc gặp gỡ giữa anh với Anna và chồng nàng, ông bỗng nảy
ra ý định là Vrônxki phải tự sát. Và sau đó khi viết tiếp, tác giả thấy điều dó
là tất yếu, không thể khác đi được. Rõ ràng những thay đổi về số phận của nhân
vật sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cốt truyện của tác phẩm.
Như vậy, trong văn học hiện đại, cốt truyện là phương tiện
để bộc lộ tính cách, cốt truyện được sử dụng để triển khai các tính cách chứ
không phải cốt truyện quyết định và chi phối tính cách như trước kia. Nói như
thế không có nghĩa là xem thường vai trò của cốt truyện vì tính cách chỉ có thể
được biểu hiện và phát triển thông qua cốt truyện. Trong quá trình sáng tạo
nghệ thuật, các nhà văn luôn cố gắng xây dựng những cốt truyện chân thực và hấp
dẫn đồng thời thể hiện được chiều sâu tâm lí của tính cách nhân vật.
3. Các thành phần chính của cốt truyện.
Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động.
Vì vậy, quá trình phát triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận
động của xung đột, bao gồm các bước hình thành, phát triển và kết thúc. Nhìn
chung, một cốt truyện thường có các thành phần chính sau:
1.3.1.
Phần trình bày.
Phần này giới thiệu khái quát về bối cảnh xã hội, các điều kiện,
nguyên nhân làm náy sinh xung đột và tình hình buổi ban đầu của nhân vật. Hoàn
cảnh ở đây thường nằm trong trạng thái tĩnh, mâu thuẫn chưa vận động và phát
triển, nhân vật chưa đứng trước những thử thách nên chưa phát hu tính năng động
của mình. Trong Truyện Kiều, phần trình bày là phần giới thiệu tài sắc của chị
em Thúy Kiều và gia cảnh của họ. Cảnh Lí trưởng sai Trương tuần đóng cổng làng
để thu thuế, cảnh thu thuế ở đình làng, cảnh nghèo đói túng thiếu của gia đình
chị Dậu là phần giới thiệu của Tắt đèn.
1.3.2.
Phần thắt nút.
Phần này đánh dấu sự kiện mà từ đó phát sinh mâu thuẫn, xung
đột. Ðây chính là biến cố đầu tiên của cả hệ thống biến cố tạo thành xung đột
của cốt truyện. phần thắt nút có nhiệm vụ bộc lộ trực tiếp những mâu
thuẫn đựơc tích tụ một cách âm ỉ từ trước, các nhân vật sẽ đứng trước những thử
thách, đòi hỏi phải bày tỏ những thái độ, chọn lựa cách xử sự, hành động, phản
ứng, từ đó bộc lộ rõ tính cách. Cảnh gia biến và việc Kiều phải bán mình chuộc
cha là phần thắt nút của Truyện Kiều. Thắt nút của Tắt đèn là cảnh tuần đinh,
lính lệ đến đánh đập anh Dậu để đòi sưu thuế (chương IV)
1.3.3.
Phần phát triển.
Ðây là phần quan trọng và dài nhất của cốt truyện bao gồm
nhiều cảnh ngộ, sự kiện và biến cố khác nhau. tính cách nhân vật chủ yếu được
xác định trong phần này. Nó có thể được thay đổi thông qua các bước ngoặt, môi
trường khác nhau. phần phát triển của Truyện Kiều là cuộc đời 15 năm lưu lạc,
từ "chữ trinh đáng gíá nghìn vàng" đến "tấm lòng trinh bạch từ
nay xin chừa", là những chuỗi dài bi kịch "thanh lâu hai lượt thanh y
hai lần", là sự tiếp xúc với đủ các hạng người trong xã hội, là nỗi đau
khổ này đến nỗi đau khổ khác của Kiều. Trong Tắt đèn, phần phát triển bao gồm
những sự kiện: đàn con bị đói, chồng bị bắt, chị Dậu một mình tất tả ngược xuôi
cho đến lúc người nhà lí trưởng ném cái xác lạnh ngắt, mê man bất tỉnh của anh
Dậu vào nhà. (từ chương V - XVII)
1.3.4.
Ðiểm đỉnh.
Còn được gọi là cao trào, là phần bộc lộ cao nhất của xung
đột. Lúc này, xung đột đã phát triển đến độ gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải
được giải quyết theo một chiều hướng nhất định. Ðiểm đỉnh thường là một khoảnh
khắc, một thời điểm ngắn nhưng có tác dụng quyết định đối với nhân vật trung
tâm. Ðiểm đỉnh của Truyện Kiều là khoảnh khắc đau xót nhất của đời Kiều: Từ Hải
chết, Kiều phải đánh đàn cho Hồ Tôn Hiến, bị ép gã cho thổ quan và cuối cùng
nhảy xuống sông Tiền Ðường tự vẫn. Ðiểm đỉnh của Tắt đèn là lúc chị Dậu bị dồn
vào đường cùng đã xô tên Cai Lệ và túm tên ngườn nhà của Lí trưởng "lẳng
một cái, ngã nhào ra thềm" (chương XVIII)
1.3.5.
Phần kết thúc. (Mở nút)
Ðây là phần giải quyết xung đột của tác phẩm một cách cụ
thể. Ởí đây, tác giả trình bày những kết quả của toàn bộ xung đột của cốt
truyện. một cốt truyện tốt, bao giờ phần kết thúc cũng được giải quyết một cách
tự nhiên, phù hợp với qui luật của cuộc sống. Tuy nhiên trong văn học cổ thường
có phần kết thúc phù hợp với ước muốn chủ quan của con người. Phần kết thúc của
Truyện Kiều là Kiều được cứu sống, là đoạn đoàn viên của Kiều với Kim Trọng
và gia đình sau 15 năm luân lạc. Trong Tắt đèn, chị Dậu từ lúc bị bắt lên
hầu quan phủ, sau đó phải xa chồng, xa con để đi làm vú hầu cụ cố nhà quan
Tỉnh, đến lúc chị choàng dậy mở cửa chạy té ra sân "Trời tối đen như mực,
như cái tiền đồ của chị" là phần kết thúc của tác phẩm. (chương XIX-
XXVI)
Những thành phần chính trên đây tạo thành một cốt truyện đầy
đủ. Tuy nhiên, trong thực tế văn học, không phải lúc nào cốt truyện cũng đầy đủ
cả 5 thành phần đồng thời cũng không phải được trình bày theo thứ tự như trên.
Ơí một số cốt truyện, có thể thiếu mất một vài thành phần, ở một số cốt truyện
khác, có thể không có phần mở đầu hoặc nhiều khi lại bắt đầu bằng phần kết thúc
hoặc một biến cố gần với điểm đỉnh. Vì vậy, khi tìm hiểu và xác định các thành
phần của cốt truyện, không nên gò ép những biến cố hay sự kiện vào thành phần
này hay thành phần khác với những lí do có tính chất hình thức. Cần tìm hiểu và
phân tích sự xây dựng cốt truyện có thể hiện được những xung đột xã hội, sự
phát triển của nó có phù hợp với qui luật cuộc sống và có thể hiện được ý đồ
nghệ thuật của tác giả hay không.
II. KẾT CẤU
1. Kết cấu và chức năng của kết cấu trong tác phẩm văn học
2.1.1. Khái niệm.
Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là
những chỉnh thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận...Tất cả những yếu
tố, bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó
nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định..gọi là kết cấu. Nói cách
khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác phẩm
văn học.
Kết cấu
là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nếu khái niệm cốt truyện nhằm chỉ sự liên
kết những sự kiện, hành động, biến cố...trong tác phẩm tự sự và kịch thì kết
cấu là một khái niệm rộng hơn nhiều.
Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố cục. Bố cục là sự sắp
xếp các phần, các chương, các đoạn, các khổ thơ...Ðây chỉ là sự tổ chức hình
thức bên ngoài của tác phẩm. Nói cách khác bố cục mới chỉ là kết cấu bề mặt của
tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh việc tổ chức,
sắp xếp các yếu tố của tác phẩm, kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong,
những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của
tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục.
2.1.2.
Chức năng của kết cấu.
Trước hết, kết cấu có nhiệm vụ góp phần thể hiện chủ đề và
tư tưởng của tác phẩm. Trong lao động sáng tạo văn học, có thể coi chủ đề tư
tưởng là mục tiêu nhằm hướng tới của nhà văn trong quá trình phát hiện và xây
dựng kết cấu. Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá kết cấu một tác phẩm chính là
hiệu quả diễn đạt nội dung của nó. Khi Radinxki cho rằng kết cấu của tiểu
thuyết Anna Karênina lỏng lẻo, đó là hai cuốn tiểu thuyết với hai tuyến nhân
vật (Anna- Vrônxki và Lêvin-Kitti) đứng cạnh nhau, thì L. Tônxtôi đã viết thư
trả lời ông: "Ngược lại, tôi tự hào với cách kết cấu: các vòm đã được xây
dựng thế nào mà không thể nhận ra được bộ đỡ ở đâu. Chính điều này làm cho
tôi phải cố gắng nhiều nhất. Mối liên hệ của công trình xây dựng không dựa và
sườn truyện và những mối quan hệ của các nhân vật, mà dựa vào mối liên hệ bên
trong". Phan Cự Ðệ khẳng định mối liên hệ bên trong "chính là tư
tưởng chủ đề của tác phẩm. Những tìm kiếm của Levin là một lời giải đáp cho
những câu hỏi mà số phận của Anna đặt ra. Anna phải li dị với chồng và sau đó
phải tự vẫn vì không tìm thấy trong xã hội một tình yêu chân chính còn Lêvin
thì đi tìm một con đường xác lập một thực tế có tình yêu. Anna thấy gia đình là
một cái gì xa lạ đối với con người thì Lêvin cố gắng đi tìm một gia đình thực
sự trong đó có tình thương yêu giữa con người với con người"
Trong tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã dành 2/3 tác phẩm để
diễn tả hàng loạt sự việc diễn ra trong 1 ngày. Tác giả đã cố gắng dồn nén tất
cả những mâu thuẫn vào trong một thời gian thật ngắn nhằm có điều kiện thể hiện
một cách tập trung nhất bản chất của bọn địa chủ, quan lại và nỗi điêu đứng, cơ
cực, đau xót của người nông dân đối với sưu cao, thuế nặng.
Trong bài thơ Mặt quê hương, Tế Hanh đã sắp xếp để tạo nên
sự hòa nhập và phản ánh, so sánh lẫn nhau giữa khuôn mặt người yêu và hình ảnh
quê hương nhằm thể hiện một chủ đề tư tưởng: Tình yêu dành cho quê hương là một
tình yêu đằm thắm, bền vững như một cái gì gắn bó, thân thiết nhất:
Mặt em như tấm gương,
Anh
nhìn thất quê hương
Kìa
đôi mắt đôi mắt
Dòng
sông yêu trong vắt
Kìa
vừng trán thanh thanh
Khoảng
trời xưa trong lành...
Kết cấu có nhiệm vụ tổ chức hệ thống các tính cách nhân vật,
sự kiện, các biến cố, hình ảnh, cảm xúc...làm cho những yếu tố đó gắn bó chặt
chẽ, tác động qua lại ngay từ bên trong tác phẩm, làm cho nó trở thành một
chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn không thể chia cắt được.
Trong đời sống văn học, đôi khi có người cho rằng một số tác
phẩm có chủ đề tư tưởng tốt nhưng tác phẩm vẫn chưa được cảm nhận như một chỉnh
thể nghệ thuật. Ðiều này có thể do nhiều nguyên nhân nhưng một phần quan trọng
là do kết cấu. Việc nhà văn sắp xếp các tình huống, sự kiện, mối liên hệ qua
lại giữa các tính cách, sự tác động giữa bộ phận và toàn thể...không phải đơn
giản. Gônsarôp cho rằng "Chỉ riêng một cách cấu tạo, tức là việc xây dựng
tòa nhà cũng đã ngốn hết toàn bộ trí óc của tác giả: Phải suy nghĩ cân nhắc
về sự tham gia của các nhân vật, kèm theo vào đó là phải luôn luôn kiểm tra và
phê phán sự bất hợp lí của những chỗ thiếu, cả những chỗ thừa".
Có thể nhìn thấy sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong
tác phẩm văn học qua "Suất sưu người chết" trong Tắt đèn của Ngô Tất
Tố. Những chi tiết của đoạn văn trên có ý nghia tự thân nhưng đồng thời nếu
thay đổi vị trí của nó, để nó xuất hiện ngay từ đầu truyện và chị Dậu cùng một
lúc chạy vạy cho đủ tiền để nộp suất sưu thì ý nghĩa tố cáo của nó sẽ không
cao. Sự sắp xếp đúng chỗ đã tạo nên sức mạnh gấp nhiều lần ý nghĩa riêng của
nó. Kim Thánh Thán cũng có nhận xét rất tinh về sự sắp xếp hệ thống nhân vật
trong Thủy hử : "Một bộ sách lớn 70 hồi, viết 108 người nhưng mở đầu
chưa viết 108 người vội mà miêu tả Cao Cầu trước đã: đó là vì nếu không tả Cao
Cầu trước mà viết ngay 108 người thì tức là loạn nẩy sinh từ dưới, nếu không
viết 108 người trước mà viết Cao Cầu trước thì tức là loạn nổi từ trên. Loạn
sinh từ dưới thì không thể để lâu được, tác giả rất lo là vậy. Một bộ sách lớn
70 hồi mà mở đầu viết Cao Cầu trước, thật là có lí vậy."
Như vậy, kết cấu của tác phẩm bao giờ cũng tăng cường sức
mạnh nghệ thuật của tác phẩm văn học, tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc. Phân
tích kết cấu tác phẩm, người đọc có thể so sánh nó với các hình thức, thủ pháp
kết cấu chung nhưng điều quan trọng là phải xuất phát từ bản thân tác phẩm và
xem nó có thể hiện tốt nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm hay không.
2. Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học.
Những hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học rất phong phú
và đa dạng. Nó có thể chịu sự qui định của thể loại (kết cấu tác phẩm tự sự và
kịch với kết cấu tác phẩm trữ tình) của từng giai đoạn lịch sử khác nhau (có
những hình thức kết cấu chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhưng sau đó
lại bị loại bỏ hoặc ít sử dụng và thay vào đó là một kết cấu mới phù hợp với
giai đoạn lịch sử mới)... Vì vậy, khó có thể xác định những hình thức kết cấu
nếu thoát li thực tế sáng tác. Tuy nhiên, ở đây có thể tìm hiểu một số hình
thức kết cấu đã từng xuất hiện trong lịch sử văn học và đã tạo nên nhiều tác
phẩm có giá trị.
2.1.
Kết cấu theo trình tự thời gian.
Ðây là dạng kết cấu phổ biến nhất trong văn học Việt Nam từ
trước 1930. Theo kết cấu này, câu chuyện được trình bày theo thứ tự, phát triển
trước sau của thời gian. Các sự kiện được sắp xếp, xâu chuỗi lại và lần lượt
xuất hiện không bị đứt quãng. Hầu hết những tác phẩm chương hồi sử dụng lối kết
cấu này. Ơí đây, tác phẩm được chia thành nhiều chương, hồi théo sự phân bố về
mặt hành động và sự kiện của cốt truyện. Mỗi chương, mỗi hồi thường gắn liền
với một giai đoạn nào đó của cốt truyện và nhiêu khi khá trọn ven, loại kết cấu
này gíup người đọc dễ theo dõi câu chuyện nhưng nhiều khi lại đơn điệu.
2.2.
Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập.
Lối kết cấu này được sử dụng nhiều trong văn học cổ. Nhà văn
xây dựng 2 tuyến nhân vật chính diện và phản diện đối lập nhau về lí tưởng,
chính kiến, đạo đức, hành động...Một bên đại diện cho lực lượng chính nghĩa,
cái đẹp, chân lí. Một bên thì ngược lại. Hai lực lượng này đấu tranh không
khoan nhượng với nhau và thường kết thúc với thắng lợi của lực lượng chính
nghĩa. Hầu hết những truyện thơ Nôm ở Việt Nam sử dụng kết cấu này.
Kết cấu này có tác dụng làm nổi rõ chủ đề tư tưởng thông qua
so sánh, đối chiếu giữa 2 tuyến nhân vật đối lập. Tuy nhiên sự phân biệt khá
rạch ròi giữa thiện và ác nhiều khi dẫn đến lí tưởng hóa hiện thực. Trong thực
tế cuộc sống, các lực lượng xã hội có tác động qua lại, chuyển hóa cho nhau chứ
không tồn tại một cách ổn định và tĩnh tại.
Hình thức kết cấu theo 2 tuyến nhân vật đôi khi được trình
bày không phải là sự đối lập mà là 2 tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và
hỗ trợ cho nhau. Ở đây mỗi tuyến tập họp những kiểu người gần gũi với nhau về
hoàn cảnh sống, về tính cách, đạo đức...Có thể coi Anna Karênina của L. Tônxtôi
được xây dựng theo hình thức kết cấu này.
2.3.
Kết cấu đa tuyến.
Trong những bộ tiểu thuyết lớn, để khái quát về một bức
tranh xã hội rộng lớn gồm nhiều hạng người, nhiều mối quan hệ đan xen nhau,
khai thác nhiều mặt khác nhau của đời sống, các nhà văn thường sử dụng hình
thức kết cấu theo tuyến nhân vật. Trong những tác phẩm này, nhà văn tổ chức các
nhân vật theo các tuyến dựa trên những mối quan hệ về gia đình, nghề nghiệp,
giai cấp... Trong Chiến tranh và hòa bình, L. Tônxtôi đã xây dựng hai tuyến lớn
và ở mỗi tuyến lớn lại có nhiều tuyến nhỏ tập họp các nhân vật theo từng dòng
họ, từng gia đình.
Hình thưc kết cấu này thường được sử dụng trong văn học hiện
đại, nhất là trong các tiểu thuyết lớn. Erenbourg có nhận xét về kết cấu của
một số tiểu thuyết trong thế kỉ XX:
"Tiểu thuyết của thời đại ta có nhiều chỗ khác với tiểu
thuyết thế kỉ XIX vốn xây dựng trên lịch sử một con người hay một gia đình.
Trong tiểu thuyết hiện đại có nhiều nhân vật hơn, số phận của họ đan chéo vào
nhau, nhà văn thường hay đưa người đọc từ thành phố này sang thành phố khác,
đôi khi di sang một nước khác nữa, cách kết cấu khiến ta nghĩ tới sự luân phiên
của những đoạn cận cảnh với những cảnh quần chúng trên màn ảnh". Có thể
coi những bộ tiểu thuyết Sông Ðông êm đềm của Sôlôkhôp hay Vỡ bờ của Nguyễn
Ðình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng ...sử dụng lối kết cấu này.
2.4.
Kết cấu tâm lí.
Ðây là hình thức kết cấu dựa theo qui luật phát triển tâm lí
của các nhân vật trong tác phẩm. Loại kết cấu này xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của các trào lưu văn học khẳng định vai trò của cá nhân trong xã hội. Kết
cấu này thường dựa vào trạng thái tâm lí có ý nghĩa nào đó để sắp xếp các sự
kiện, nhân vật, cốt truyện...Trong Sống mòn, Nam Cao đã sắp xếp nhiều mẫu
chuyện vặt vãnh, quẩn quanh trong sinh hoạt hằng ngày với những trạng thái tâm
lí bi quan, bất lực, tự ti, khinh bạc...của các nhân vật. Kết cấu đó góp phần
thể hiện cuộc sống chật hep, tù túng, bế tắc của người tiểu tư sản nghèo trong
xã hội cũ.
2.5.
Kết cấu trong tác phẩm trữ tình.
Những hình thức kết cấu trên tiêu biểu cho loại tác phẩm có
cốt truyện: tác phẩm tự sự và kịch. Loại tác phẩm trữ tình, tiêu biểu nhất là
thơ trữ tình không có cốt truyện nên cần xem xét cho phù hợp với đặc trưng thể
loại: tác phẩm trữ tình chủ yếu thể hiện trực tiếp tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ
chủ quan của người nghệ sĩ. Vì vậy, xây dựng kết cấu trong tác phẩm trữ tình là
sự tổ chức hệ thống cảm xúc, tâm trạng trong quá trình vận động và phát triển
của chúng. Một kết cấu tốt trong tác phẩm trữ tình phải liên kết được các mạch
thơ, dòng thơ, các biện pháp biểu hiện nhằm thể hiện tốt nhất sự vận động cảm
xúc nội tâm của nhân vật.
Có thể nói đến nhiều hình thức kết cấu khác nhau và nhà văn
khi xây dựng tác phẩm, lựa chọn kết cấu nào bao giờ cũng nhằm nâng cao sức biểu
hiện của chủ đề tư tưởng, tăng cường sức tác động thẩm mĩ của tác phẩm đối với
người đọc. Các hình thức kết cấu dù phong phú và đa dạng cũng chỉ là hữu hạn
trong khi thực tế sáng tác thì vô hạn. Tong từng tác phẩm, nhà văn có thể vận
dụng nhiều hình thức kết cấu khác nhau với sự sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy,
không thể qui những tác phẩm cụ thể vào một dạng kết cấu riêng biệt nào mà cần
phải xem xét tác động nghệ thuật của kết cấu đối với người đọc cũng như chức
năng cụ thể của nó trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét