ÐỀ TÀI - CHỦ ÐỀ - TƯ TƯỞNG - Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ
CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC.
CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC.
- ÐỀ TÀI
- Khái niệm
- Đề tài và đối tượng
- Đề tài và hệ thống đề tài
- Tính lịch sử - cụ thể của đề tài
- Tính khách quan tương đối của đề tài
- CHỦ ĐỀ
- TƯTƯỞNG TÁC PHẨM
- Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM
-----------------------------------------------------------
1. Khái niệm.
Ðề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả,
thể hiện tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm đồng thời
là cơ sở để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. Có thể nói, đề
tài là khái niệm trung gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa trong tác
phẩm và bản thân đời sống. Người ta có thể xác định đề tài trên 2 phương diện:
bên ngoài và bên trong.
Nói đến
phương diện bên ngoài là nói đến sự liên hệ thuần túy đến phạm vi hiện
thực mà tác phẩm phản ánh. Ơí đây, sự xác đinh đề tài thường dựa trên cơ sở các
phạm trù lịch sử- xã hội. Có thể nói đến đề tài chống Pháp, chống Mĩ, đề tài
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề tài công nhân, nông dân, bộ đội...
Tuy nhiên, để tránh sự đồng nhất đề tài và đối tượng phản
ánh và thấy được tính chất của phạm vi được phản ánh, cần phải đi vào phương
diện bên trong của đề tài. Ðó là cuộc sống nào, con người nào...được thể hiện
trong tác phẩm. Nói cách khác, đó chính là tính chất của đề tài bên ngoài.
Trong trường hợp này, đề tài chính là vấn đề được thể hiện trong tác phẩm và
trong nhiều trường hợp nó trùng khít với chủ đề. Chẳng hạn, Sống mòn của Nam
Cao viết về người trí thức tiểu tư sản nhưng đó là người trí thức tiểu tư sản
quẩn quanh, bế tắc, mòn mỏi. Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu viết về người con
gái giang hồ với cuộc sống đau đớn, tủi nhục và ước mơ tốt đẹp của họ trong
cuộc sống cũ...
2. Ðề tài và đối tượng.
Ðề tài gắn bó chặt chẽ với đối tượng nhưng không thể đồng nhất 2 khái niệm này.
Ðối tượng là một phần của khách thể mà con người có thể chiếm lĩnh, phù hợp với
một nhu cầu, một năng lực nhất định nhưng là cái nằm bên ngoài tác phẩm, chưa
được chủ thể nhận thức còn đề tài là đối tượng đã thông qua sự lựa chọn và miêu
tả, thể hiện trong tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đối tượng là cơ sở của
đề tài, là sự khái quát những phạm vi xã hội, lịch sử trong tác phẩm.
3.
Ðề tài và hệ thống đề tài.
Trong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài
mà có rất nhiều đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ
thống đề tài. Pospelôp cho rằng: "Hệ đề tài là toàn bộ đề tài của tác phẩm
hoặc sáng tác". Chẳng hạn, Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa có đề tài về tình
yêu, về hạnh phúc lứa đôi, về các quan mặt sắt đen sì, về nông dân khởi nghĩa,
về cuộc đời của các cô gái lầu xanh...Các đề tài đó gắn bó chặt chẽ với số phận
bi thảm của nàng Kiều. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, bên cạnh đề tài về cuộc
sống bi thảm của người nông dân còn có các đề tài về cuộc sống của bọn quan lại
tham lam, ích kỉ, về cuộc đời của các em bé nghèo khổ... Như vậy, khi nói đến
đề tài của một tác phẩm hoặc của văn học nói chung, thực chất không phải chỉ
nói một đề tài mà là cả một hệ thống đề tài.
4. Tính lịch sử -cụ thể của đề tài.
Ðề tài của tác phẩm thường gắn chặt với hiện thực cuộc sống
của thời đại mà nhà văn đang sống, vì vậy nó mang tính lịch sử xã hội sâu sắc.
Tìm hiểu quá trình phát triển của lịch sử văn học, có thể nhận thấy trong mỗi
thời kì lịch sử khác nhau, thường nổi lên những loại đề tài trung tâm khác
nhau. Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ 18 nửa đầu thế kỉ 19, đề tài về số phận
của người phụ nữ chiếm một vị trí đáng kể trong trào lưu văn học nhân đạo
chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn từ 1945-1975, đề tài về người chiến sĩ cách
mạng, về những người công nhân tiên tiến lại nổi lên hàng đầu.
Có những đề tài dường như thường được lặp đi lặp lại trong
văn học ở mọi nơi và mọi thời đại. Chẳng hạn đề tài về tình yêu và hạnh phúc,
chiến tranh và hòa bình, sự sống và cái chết...Có người cho rằng đấy là những
đề tài vĩnh cửu của văn học. Thật ra, đó chỉ là một cách nói. Bởi vì, ngay chính
một nhà văn khi viết về một phạm vi cuộc sống thì đề tài của tác phẩm cũng đã
là một cái gì mới mẻ, không lặp lại.
5. Tính khách quan tương đối của đề tài.
-Khách quan. Ðề tài có tính khách quan vì bản
thân nó chưa thể hiện tính tư tưởng. Những nhà văn có lập
trường tư tưởng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau vẫn có thể cùng viết về một
đề tài. Raxun Gamzatôp từng viết:
"Ðừng nói: trao cho tôi đề tài.
Hãy
nói: Trao cho tôi đôi mắt".
Chế Lan Viên có lần nói về thơ Tố Hữu: "Hãy đi tìm tình
cảm, tư tưởng công nhân hơn là đi tìm ống khói trong thơ Tố Hữu."
-Tương đối: Tính khách quan của đề tài cũng chỉ
mang tính tương đối vì xét đến cùng, đề tài ít nhiều cũng gắn
bó với thế giới tinh thần của nhà văn. Sự quan tâm và hứng thú của nhà văn đối
với một loại đề tài nhất định nào đó nhiều khi cũng xuất phát từ chỗ đứng, quan
điểm tư tưởng, thậm chí từ khuynh hướng chính trị của nhà văn đó.
Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận xét về đề tài của một số nhà văn
như sau: "Trong thực tế của đời sống văn học, thường thấy hiện tượng
này: các nhà văn dù lớn đến đâu cũng chỉ có một vùng đề tài ưa thích nhất và
ông ta chỉ có thể viết hay về những đề tài ấy mà thôi. Khi vì một lí do nào đó,
ông ta hướng ngòi bút ra ngoài khu vực đề tài ấy, thì ông ta không còn sắc sảo
nữa, tác phẩm trở nên nhạt nhẻo, hình tượng thiếu sức sống, thiếu linh hồn, tài
năng dường như rời bỏ ông ta. Thiếu thực tế chăng? Không hẳn như vậy. Chẳng
hạn, Nguyễn Ðình Thi đâu phải thiếu thực tế về những ngày sôi sục của Cách mạng
tháng Tám mà chính ông là một nhân chứng? Nhưng trong Vỡ bờ, những trang tương
đối xem được chỉ có ở tập 1 khi viết về đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ,
tối tăm, cơ cực. Ðến tập 2, càng về cuối, càng thấy nhạt nhẻo, sơ lược: ấy là
nhữg trang mô tả cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 và đất nước vùng lên tức nước vỡ
bờ. Có lẽ Nguyễn Ðình Thi là cây bút sinh ra để làm thơ, soạn nhạc hơn là viết
văn xuôi, chỉ có thể viết hay về đất nước mình đẹp trong đau khổ, bất hạnh:
"Anh yêu em như yêu đất nước,
Vất vả, đau thương, tươi thắm vô ngần.
Không phải ngẫu nhiên mà con người ấy chọn viết Nguyễn Trãi
ở Ðông quan chứ không phải Nguyễn Trãi ở Lam Sơn. Và câu thơ hay nhất trong bài
Ðất nước là những câu thơ viết về Hà Nội đẹp một cách hoang vắng, hiu hắt trước
Cách mạng tháng 8 "Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không
ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" và những câu thơ viết về đất
nước bị giày xéo, cào xé trong cuộc kháng chiến chống Pháp "Ôi những cánh
đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều" (Con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn, tr12-13).
II. CHỦ ĐỀ
1. Khái niệm.
Chủ đề
là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài. Nói cách
khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu lên
trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. Có thể nêu lên một số chủ đề
của các tác phẩm:
Tắt đèn của Ngô Tất Tố tập trung phản ánh số phận bi thảm
của người nông dân do chế độ sưu thuế, sự bóc lột tàn khốc
trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Chí phèo của Nam Cao lại tập trung tô đậm
vấn đề tha hóa, biến chất của một bộ phận nông dân và ước mơ làm người lương
thiện của họ. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nêu bật lên số phận bi kịch của
người phụ nữ, những ước mơ vươn tới hạnh phúc, vấn đề đấu tranh để thực
hiện tự do và công lí. Qua Vợ nhặt, Kim Lân đã phản ánh cuộc sống khốn khổ của
nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 và tình cảm hướng về cách mạng
của họ đồng thời nêu lên một vấn đề có ý nghĩa nhân bản sâu sắc : Ðó là cái
tình trong cuộc sống đời thường của những người lao động trong một hoàn cảnh
gần như hoàn toàn bế tắc. Trong Mùa lạc, Nguyễn Khải quan tâm đến sự thay đổi
số phận của những con người đã từng chịu nhiều bất hạnh trong xã hội cũ, nay đã
tìm lại được niềm vui, hạnh phúc và chỗ đứng trong xã hội mới.
2. Mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề.
-Chủ đề luôn được xây dựng từ một đề tài nhất định. Nói cách
khác, chủ đề không phải là một cái gì bên trên, bên ngoài đề tài mà xuất phát
từ ý đồ, từ những gợi ý của những hiện tượng cuộc sống cụ thể thông qua cái
nhìn, quan niệm của nhà văn. Chủ đề thể hiện sự thống nhất hữu cơ giữa hiện
thực khách quan và tư tưởng chủ quan của nhà văn. Vì vậy, cùng viết về một đề
tài gần gũi, nhà văn vẫn nêu lên được những vấn đề sâu sắc khác nhau tùy thuộc
vào tài năng, khả năng thâm nhập đời sống và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn.
Từ đề tài về các cô gái giang hồ trong xã hội cũ, các nhà
văn có thể nêu lên những chủ đề không giống nhau. Có thể thấy rõ điều này qua
những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Lời kĩ nữ của Xuân Diệu; Ðời mưa gió của
Nhất Linh và Khái Hưng; Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu...
Từ đề tài về miếng ăn, nhiều tác giả đã đặt ra những vấn đề
rất khác nhau: Ngô Tất Tố tiếp cận với miếng ăn như một điều kiện để tồn tại
(Làm no), Nam Cao nêu lên những vấn đề về nhân cách (Một bửa no, Tư cách mỏ,
Trẻ con không được ăn thịt chó, Sú vơ nia, Sống mòn....); Nguyễn Tuân lại
chú trọng đến miếng ăn như một giá trị văn hóa, nghệ thuật của dân tộc (
Giò lụa, Hương cuội, Chén trà trong sương sớm, Phở, Cốm...) ...Trần Ðăng
Khoa nhận xét về vấn đề miếng ăn, vấn đề cơm áo trong tác phẩm Nam Cao có
lẽ chưa thực xác đáng và thấu đáo: "Văn chương của Nam Cao cũng rất gần
với văn chương của Tsêkhôp, Lỗ Tấn nhưng khoảng cách tầm cỡ thì hình như vẫn
còn xa nhau lắm. Sở dĩ có cái khoảng cách ấy cũng là vì ở chỗ, Lỗ Tấn và
Tsêkhốp quan tâm đến nỗi đau ở cõi tinh thần còn Nam Cao lại để tâm trí đến
cái bụng (Tào VĂn Ân nhấn mạnh). Ðọc ông ấy, trang nào cũng thấy đói. Mà
văn học chỉ luẩn quẩn xung quanh miếng ăn, cũng khó mà lớn được" (Chân
dung và đối thoại)
Chủ đề
gắn bó với đề tài nhưng nhiều khi nó vượt qua những giới hạn của những đề tài
cụ thể mà nêu lên những vấn đề khái quát, rộng lớn hơn. Không nên nghĩ rằng
viết về đề tài nông dân, công nhân, trí thức... thì chủ đề cũng sẽ bị hạn định
với những tầng lớp cụ thể, xác định đó. Những tác phẩm văn học lớn, bên cạnh
việc phản ánh những nội dung lịch sử xã hội cụ thể, bao giờ cũng từ đó, nêu lên
những vấn đề chung có ý nghĩa khái quát về thân phận, nỗi đâu, hạnh phúc của
con người. Vì vậy, không nên hạn chế ý nghĩa của chủ đề trong phạm vi đề tài
xác định.
3. Chủ đề và hệ thống chủ đề.
Trong một tác phẩm, thường không phải chỉ có một chủ đề duy
nhất mà có nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành một hệ
thống chủ đề (Pospelôp gọi là hệ vấn đề). Trong hệ thống chủ đề, có thể nổi lên
vài chủ đề có ý nghĩa trung tâm, quán xuyến toàn bộ tác phẩm. Ðó là chủ đề
chính. Bên cạnh đó, có những chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần bổ sung, làm
nổi bật chủ đề chính, được gọi là chủ đề phụ. Trong một tác phẩm, các chủ đề
không có giá trị ngang nhau nên việc xác định đúng đắn chủ đề chính, chủ đề phụ
sẽ góp phần quan trọng trong việc lí giải ý nghĩa của tác phẩm.
4. Một số chủ đề xuất phát từ những đề tài lịch sử, thiên
nhiên, khoa học...
Nhà văn sáng tác bao giờ cũng nêu lên những vấn đề liên quan
đến thời đại mình nhưng vì một lí do nào đó, nhà văn có thể không viết về những
đề tài đương thời hoặc trực tiếp liên quan đến những vấn đề xã hội nóng bỏng.
Vì vậy, có một số tác phẩm viết về các đề tài lịch sử, thiên nhiên, khoa
học...Ở đây, tác phẩm có thể nêu lên hai chủ đề nhưng không cùng trên một bình
diện: chủ đề nổi bên trên không trực tiếp biểu hiện nội dung xã hội và một chủ
đề ẩn bên dưới kín đáo bộc lộ một ý nghĩa sâu xa về những vấn đề xã hội nóng
bỏng. Ðây là một lối viết bóng gió, khai thác tối đa tính đa nghĩa của hình
tượng văn học. Trong cuộc họp với hơn 100 nhà hoạt động văn hóa và văn
nghệ sĩ vào ngày 7.10.1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cho rằng
:"Sáng tác tác phẩm đụng đến nhà quan liêu mệnh lệnh nào đó đương chức
đương quyền là điều khó nhưng phải dũng cảm bằng cách này cách khác mà viết. Có
khi phải mượn chuyện đời xưa để nói làm ai đó phải giật mình, phải thấy nhột.
Trước đây, có những tác phẩm vì thế mà phải xổ tọet, tác giả phải hứng chịu
nhiều sự phiền toái, thậm chí lao đao nhưng có phải vì thế mà ta phải uốn cong
ngòi bút cho hợp khẩu vị của những con người xấu ấy không? Tôi cho rằng nếu
phải làm như vậy thì người nghệ sĩ mất hết chất cách mạng rồi".
Chủ đề và nhất là đề tài là phương diện khách quan của nội
dung tư tưởng của tác phẩm. Nó giúp người đọc nhận biết tác phẩm đề cập và nêu
ra những vấn đề gì của đời sống hiện thực. Gọi là khách quan vì chủ yếu nó bắt
nguồn từ hiện thực, do hiện thực gợi ý mặc dù có sự lựa chọn, suy ngẫm của nhà
văn. Khách quan ở đây cần được hiểu với ý nghĩa tương đối của nó.
III. TƯ
TƯỞNG CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
1. Khái niệm chung.
Nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ
thể sống động của tác phẩm văn học cũng như những vấn đề nhân sinh được đặt ra
trong đó.
Tư tưởng là linh hồn, là hạt nhân của tác phẩm, là kết tinh
của những cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời...Do yêu cầu của tư duy khái quát,
người ta thường đúc kết tư tưởng của tác phẩm bằng một số mệnh đề ngắn gọn,
trừu tượng. Thực ra, tư tưởng náu mình trong những hình tượng sinh động, những
cảm hứng sâu lắng của tác giả. Biêlinxki cho rằng: "Tư tưởng thơ, đó không
phải là phép tam đoạn luận, không phải là giáo điều mà là một ham mê sống
động, đó là cảm hứng".
Nếu có thể coi đề tài và chủ đề thuộc về phương diện khách
quan thì tư tưởng tác phẩm thuộc về phương diện chủ quan của nội dung tư tưởng
tác phẩm.
Tư tưởng tác phẩm văn học là sự khái quát của cả hai phương
diện: lí giải, nhận thức và khát vọng của nhà văn thể hiện trong tác phẩm thông
qua hình tượng nghệ thuật. Nó gắn bó chặt chẽ với đề tài và chủ đề và được biểu
hiện tập trung ở ba phương diện: Sự lí giải chủ đề, cảm hứng tư tưởng và tình
điệu thẩm mĩ.
2. Sự lí giải chủ đề.
3.2.1. Khái niệm. Chủ đề và sự lí giải chủ đề có
liên quan với nhau nhưng không phải là một. Nếu chủ đề
chú ý đến vấn đề đặt ra trong tác phẩm xuất phát từ hiện thực thì sự lí giải
chủ đề lại quan tâm đến sự giải thích, cắt nghĩa, nhận thức của nhà văn về
những vấn đề đặt ra trong tác phẩm dựa trên một quan điểm nhất định nào đó. Ðây
là phương diện rất cơ bản trong nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Chủ đề của Tắt đèn là cuộc sống bị bần cùng hóa của người
nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8. Nhưng tác giả không chỉ nêu ra cuộc
sống đó mà còn lí giải nó. Trên lập trường nhân đạo chủ nghĩa, Ngô Tất Tố cắt
nghĩa, giải thích cuộc sống khổ đau, bế tắc đó đồng thời bộc lộ rõ thái độ,
quan điểm, cảm xúc của mình trước những hiện tượng khác nhau của cuộc sống. Qua
sự lí giải chủ đề, người đọc sẽ thấy được sức khái quát và sự hiểu biết sâu sắc
của nhà văn về cuộc đời.
3.2.2.
Biểu hiện của sự lí giải chủ đề trong tác phẩm.
Sự lí giải chủ đề có thể được biểu hiện trong tất cả những
yếu tố của tác phẩm nhưng nhìn chung thường được xem xét trên 2 mặt: những lời
thuyết minh trực tiếp của tác giả, của nhân vật và tính khách quan của hình
tượng nghệ thuật, lôigic của sự mô tả. Hai mặt này nhìn chung thường thống nhất
với nhau. Người đọc cần chú trọng đến tính khách quan của hình tượng nghệ thuật
hơn bởi vì ý nghĩa của tác phẩm chủ yếu được biểu hiện thông qua hình tượng
nghệ thuật chứ không phải là ở những phát ngôn trực tiếp của tác giả.
Hai mặt này có khi mâu thuẫn với nhau, nhất là trong văn học
cổ. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nhiều lần nêu lên quan niệm "hồng nhan
bạc mệnh", "hồng nhan đa truân", "tài mệnh tương
đố"...để giải thích cho thân phận long đong, chìm nổi của Kiều nhưng
thông qua toàn bộ hình tượng nghệ thuật, thông qua logic của sự miêu tả,
người đọc có thể nhận ra được số phận của Kiều không phải do "trời
xanh", "hóa công" ...mà chính là do những lực lượng thống trị xã
hội lúc bấy giờ. Ở đây, sự lí giải vấn đề đầy mâu thuẫn nhưng đó lại là một
trong những điều làm cho Nguyễn Du vĩ đại và bất tử.
3. Cảm hứng tư tưởng của tác phẩm.
3.3.1. Khái niệm. Ngay từ thời cổ Hy Lạp và sau
này Hégel và Biêlinxki đều đã dùng từ cảm hứng (tiếng Hy Lạp
cổ: Pathos) để chỉ trạng thái xuất thần, hưng phấn, một tình cảm nồng nàn, sâu
sắc khi nhà văn sáng tạo tác phẩm. Phùng Quí Nhâm gọi là thái độ tư tưởng-tình
cảm đối với những điều được miêu tả.
Cảm hứng của nhà văn và cảm hứng tư tưởng của tác phẩm quan
hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Cảm hứng tư tưởng là tình cảm
mãnh liệt, một ham muốn tích cực, là tư tưởng của nhà văn được thể hiện cụ thể,
sinh động trong hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Bến không chồng của Dương
Hướng thể hiện tâm trạng khắc khoải, một ước mơ về hạnh phúc đích thực của cuộc
đời thường, là sự cảm thông sâu sắc với những con người đã chịu nhiều mất mát.
Tràng giang của Huy Cận là một nỗi buồn mênh mông, vô tận trước cảnh trời rộng,
sông dài, là sự nhỏ bé, cô đơn của con người trước cái vô cùng của thiên nhiên,
vũ trụ...
3.3.2.
Sự thể hiện của cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm văn học.
Có 2 khả năng thể hiện rõ nét cảm hứng tư tưởng của nhà văn
trong tác phẩm qua thái độ- tư tưởng -tình cảm của nhà văn đối với các hiện
tượng, tính cách được miêu tả: khẳng định hoặc phủ định đối với những điều được
miêu tả. Khẳng định lí tưởng tốt đẹp và phủ định đối với những cái xấu, là sự
đồng tình, cảm thông, ngợi những nhân vật chính diện và phê phán, tố cáo các
thế lực đen tối. Ðiều này làm cho tác phẩm thể hiện rõ tính khuynh hướng,
"thiên vị" đối với những nhân vật lí tưởng mà tác giả yêu mến và cho
phép họ thể hiện mãnh liệt cảm xúc của mình. Sêđrin khẳng định:"Nếu thiếu
một tư tưởng thiên vị (không phải thiên vị trong ý nghĩa xuyên tạc người
khác mà là với ý nghĩa khuynh hướng chung của tác phẩm) thì sẽ không có sức
sống sôi động. Ngẫu nhiên, rờ rạc, nguội lạnh, nhạt nhẽo, đó là đặc trưng lớn
nhất của tác phẩm không có tính khuynh hướng. Không tình tiết nào có thể bù đắp
cho thiếu sót đó".
Trong văn học, mối tương quan giữa 2 khả năng này có thể
khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn văn học, vào từng nhà văn cụ thể.
Cảm
hứng bắt nguồn từ tình cảm nhưng đó là tình cảm nhiều chiều, phức hợp chứ không
phải đơn điệu. Những hài kịch của Molière, phía sau nụ cười là những giọt nước
mắt. Nhiều bài thơ của Hồ Xuân Hương, bên cạnh giọng điệu tưởng chừng như bỡn
cợt là nỗi xót xa sâu sắc về thân phận của người phụ nữ, là sự khẳng định giá
trị của người phụ nữ...
Cảm hứng của tác phẩm chủ yếu được thể hiện thông qua hình
tượng nghệ thuật, tính cách và sự miêu tả chứ không phải là cái "loa"
phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bài thơ "Không chồng mà chữa" của
Hồ Xuân Hương là sự khẳng định tình yêu, là sự cảm thông sâu sắc về sự cả nể
của cô gái. Ðó không phải là điều tội lỗi, không phải là một điều vô đạo đức.
Tác giả không trực tiếp lên án xã hội phong kiến nhưng những câu thơ tự nó đã
nói lên điều đó.
4. Tình điệu thẩm mĩ (Cảm hứng thẩm mĩ).
Cùng với các khái niệm đề tài, chủ đề, sự lí giả chủ đề, cảm
hứng tư tưởng...nội dung tư tưởng của tác phẩm còn được khái quát và biểu hiện
qua tình điệu thẩm mĩ.
3.4.1. Khái niệm chung. Tình điệu thẩm mĩ là hệ thống
những giá trị được khái quát và thể hiện trong tác phẩm. Mọi tác
phẩm văn học trong khi phản ánh hiện thực đều tái hiện những lớp hiện tượng đời
sống giá trị thẩm mĩ nhất định, độc đáo và không lặp lại. Chính điều này làm
cho tư tưởng của tác phẩm khác với tư tưởng trong các lĩnh vực khác.
Tình điệu thẩm mĩ là toàn bộ không khí, mùi vị, cảm giác,
hơi thở, nhịp điệu tiêng bao trùm lên tác phẩm. Qua Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh, người đọc cảm nhận cái không khí dữ dội và rợn ngơp, là nỗi đau thương
và khắc khoải trước những mất mát của chiến tranh và hậu quả của nó. Nhiều bài
thơ của Huy Cận để lại một ấn tượng bát ngát, mênh mông, vô tận của không gian,
vũ trụ. Thơ Nguyễn Bính là sự bâng khuâng, sâu lắng và tha thiết về tình yêu.
Trần Ðình Sử cho rằng "Tình điệu này có thể là cái bát ngát của bình
minh trên biển, cái dịu êm của đêm trăng, cái dìu hiu nơi thôn vắng, cái dữ dội
của dông tố, cái mênh mang của đất trời...dó có thể là cái mĩm cười của sự
sống, niềm bâng khuâng trước đổi thay. Ðó là toàn bộ cái không khí, mùi vị, cảm
giác đầy ý nghĩa mà con người hít thở và thấy mình tồn tại ở trong đó". Vì
vậy cũng thật khó để chỉ rõ và phân biệt rạch ròi tình điệu thẩm mĩ và các
yếu tố khác trong tác phẩm.
3.4.2. Tình điệu thẩm mĩ và cảm hứng tư tưởng.
Hai khái niệm này gắn bó chặt chẽ, khó thể tách rời
nhưng cũng có thể phân biệt ở những mức độ nhất định.
Cảm hứng tư tưởng là niềm say mê, nhiệt tình khẳng định hay
phủ định, thể hiện tinh thần chiến đấu nhằm bảo vệ công lí, lẻ phải...Tình điệu
thẩm mĩ là phẩm chất, giá trị thẩm mĩ của nội dung tác phẩm. Chẳng hạn, chất
trào phúng, châm biếm trong thơ Hồ Xuân Hương là tình điệu thẩm mĩ thì cảm hứng
tư tưởng trong tác phẩm của bà lại là nhiệt tình khẳng định những tình cảm tự
nhiên đáng quí ở con người đồng thời là sự phê phán, căm giận đối với lễ giáo
khắc khe của xã hội. Tình điệu thẩm mĩ trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế
này chăng của Chế Lan Viên thiên về cái đẹp, cái anh hùng của thời đại và
con người còn cảm hứng tư tưởng là sự khẳng định, tôn vinh con người và cuộc
sống đó...Tình điệu thẩm mĩ có thể được khái quát vào các phạm trù mĩ học như
cái đẹp, cái anh hùng, cái cao cả, cái bi, cái hài và các biến thể của chúng.
chẳng hạn, cái sầu, cái hận, cái thống thiết,cái buồn...là các dạng khác nhau của
cái bi; chất humour, châm biếm, trào lộng...là các dạng của cái hài; sự hài
hòa, cân đối, hoàn thiện, cái xinh xắn là sự biểu hiện của cái đẹp; cái lớn
lao, phi thường, mênh mông, bát ngát...là sự biểu hiện của cái cao cả. Nói về
tình điệu thẩm mĩ trong tác phẩm, ông Trần Ðình Sử cho rằng: "Có thể nói
tới chất châm biếm, u-mua của Nhật kí trong tù bên cạnh chất trữ tình cổ
điển và chất văn xuôi hiện đại. Có thể nói tới cái bát ngát trong nhiều bài thơ
Huy Cận, cái thống thiết trong thơ Phan Bội Châu, cái buồn trong thơ moiứ, cái
hận sầu trong một số thơ cổ...Cần hiểu đó là các biểu hiện cụ thể, độc đáo của
các phạm trù thẩm mĩ". Chính các tình điệu thẩm mĩ này góp phần vào
việc bộc lộ rõ tư tưởng của tác phẩm văn học.
Tóm lại, những yếu tố được trình bày trên tồn tại thống nhất
hữu cơ trong tác phẩm và sự phân biệt chúng với nhau cũng chỉ có tính chất
tương đối.
IV. Ý
NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
1. Khái niệm chung.
Nói đến ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học là nói đến
sự đánh giá, thẩm định các phương diện thuộc về nội dung tư tưởng tình cảm, nội
dung nhận thức, nghệ thuật, sự chân thành của tình cảm....được thể hiện trong
tác phẩm. Vấn đề đặt ra là những ý nghĩa và giá trị đó do đâu mà có ? Bởi
vì có một thực tế là trước cùng một tác phẩm, người đọc nói chung và giới
phê bình, nghiên cứu nói riêng có thể có những cảm nhận và đánh giá không giống
nhau, thậm chí trái ngược nhau? Tại sao có tác phẩm chỉ tồn tại trong một thời
gian ngắn ngủi so với cuộc đời của tác giả nhưng cũng có những tác phẩm tồn tại
mãi mãi với thời gian? Trả lời những câu hỏi này một cách đầy đủ và đúng đắn
đòi hỏi người nghiên cứu không chỉ hiểu được đặc trưng của lí luận sáng tác mà
còn phải chú ý đến lí luận tiếp nhận, lí luận về cảm thụ văn học. Trong
phần này, chúng tôi chỉ nêu lên một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc lí
giải, nhận định khác nhau về ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học qua các
giai đoạn phát triển của lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học.
2. Những nguyên nhân tạo nên sự lí giải khác nhau về tác
phẩm .
4.2.1.
Nguyên nhân từ phía người đọc.
Tác phẩm văn học được sáng tác là để thưởng thức, tiếp nhận.
Một tác phẩm chỉ tồn tại với tư cách là một tác phẩm đích thực khi nó đến với
người đọc. Người đọc ở đây là một khái niệm hết sức rộng lớn, bao quát, đa
dạng, phức tạp...bao gồm các tầng lớp người khác nhau về giai cấp, dân tộc,
trình độ văn hóa, lứa tuổi, giới tính, kinh nghiệm, năng khiếu, cảm xúc thẩm
mĩ... với những động cơ và mục đích đọc tác phẩm khác nhau. Chính sự khác biệt
này là một nguyên nhân quan trọng trong việc định giá tác phẩm văn học.
- Tính chủ quan của ngừơi đọc.
Có một quan niệm tương đối phổ biến ở phương Ðông cũng như ở
phương Tây khẳng định vai trò chủ quan của người đọc trong việc tiếp nhận,
thưởng thức và đánh giá tác phẩm. Những người theo quan niệm này cho rằng đọc
tác phẩm không phải là tái hiện lại một cách trung thành những điều tác giả đã
gửi gắm và thể hiện trong tác phẩm mà chủ yếu là tìm kiếm tâm hồn mình qua tác
phẩm, người đọc là người kể lại tâm hồn mình qua những kiệt tác
(A.France). Kim Thánh Thán cho rằng: Tôi ngày ngày sở dĩ phê bình Mái Tây
thật là vì người sau họ nghĩ tới tôi, tôi muốn có gì làm quà cho họ, cho nên
bất đắc dĩ mà làm việc đó. Tôi thực không rõ ý đồ của người viết Mái Tây
có quả đúng như vậy hay không? Nếu quả cũng như thế, thì ta có thể nói
rằng nay mới bắt đầu thấy rõ Mái Tây...Bằng không như vậy thì ta có thể nói là
trước đây vẫn thấy Mái Tây nhưng nay lại thấy có riêng vở Mái Tây của Thánh
Thán cũng được. Việc tiếp nhận tác phẩm văn học ở đây như là một hành động gửi
gắm tâm sự của người đọc. Ðịnh cho tác phẩm một ý nghĩa và giá trị có phù hợp
với những vấn đề ẩn chứa trong tác phẩm hoặc với ý định của tác giả hay không
không phải là điều quan trọng mà quan trọng là ở vai trò của chủ thể cảm thụ.
Ingarden nhấn mạnh Có bao nhiêu độc giả và có bao nhiêu sự đọc mới cho cùng
một tác phẩm thì có bấy nhiêu những thành tựu mà chúng ta gọi là sự cụ thể hóa
của tác phẩm. Rolland Barthes còn cực đoan hơn Khi đọc tác phẩm tôi đặt sự đọc
vào cái tình huống của tôi...Tình huống hay thay đổi làm ra tác phẩm chứ không
tìm lại được tác phẩm; tác phẩm không thể phản đối, chống lại cái ý nghĩa mà
tôi gán cho nó.
- Tính khách quan của người đọc.
Lí giải sự cảm thụ, đánh giá tác phẩm khác nhau dựa trên cơ
sở chủ quan của người đọc là đúng đắn. Nếu như trong lĩnh vực sáng tạo nghệ
thuật, dấu ấn cá nhân được thể hiện đậm nét thì trong lĩnh vưcû nghiên cứu, cảm
thụ nghệ thuật cũng có tình trạng tương tự. Tuy nhiên, sẽ hoàn toàn sai lầm khi
cho rằng người đọc là yếu tố hoàn toàn chủ quan trong việc xác định giá trị của
tác phẩm văn chương. Bởi vì nếu vậy thì sẽ không lí giải nổi nhiều hiện tượng
văn học khác nhau: Tại sao có một số tác phẩm được đánh giá cao ở giai đoạn này
nhưng đến giai đoạn khác thì hoàn toàn ngược lại? Tại sao trong mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau, người ta lại thường chú ý và khai thác một cách khác nhau
một vài yếu tố nào đó trong tác phẩm ? Tại sao sau khi xem xong một tác phẩm
nghệ thuật, người đọc nói chung đều có thể có một ấn tượng chung nào đó về tác
phẩm, về một số nhân vật ? (Trương Phi, Quan Công, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, Sở
Khanh...). Chính vì vậy, khi nói đến giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm,
không thể tách rời với những hoàn cảnh văn hóa-lịch sử- xã hội nhất dịnh.
Ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn chương phụ thuộc vào vai
trò chủ quan của người đọc, đặc biệt là những người đọc chuyên nghiệp (những
nhà phê bình, nghiên cứu). Nhưng người đọc ở đây là những con người cụ thể và
sống trong một môi trường, một hoàn cảnh xã hội, một thời kì lịch sử nhất định.
Vì vậy, người đọc ở mỗi thời đại khác nhau sẽ có cái nhìn không hoàn toàn giống
nhau về giá trị của tác phẩm. Nếu coi sáng tạo nghệ thuật là một hoạt động mang
tính khuynh hướng xã hội mạnh mẽ thì tiếp nhận nghệ thuật cũng không thể thoát
li khỏi những điều kiện lịch sử trong những thời kì nhất định. Trong quá trình
tiếp nhận tác phẩm văn học, mỗi cá nhân đến với tác phẩm không chỉ đem đến cho
nó cái tôi mà còn cả cái ta nữa.Người đọc sẽ cắt nghĩa, định giá cho tác phẩm trên
cơ sở lập trường giai cấp, lợi ích dân tộc, xã hội, nhu cầu tinh thần và thẩm
mĩ không giống nhau qua từng thời kì lịch sử nhất định. Khrapchenkô đã dẫn lời
của Biêlinxki để nói về Puskin như sau: Puskin thuộc về những hiện tượng mãi
mãi tồn tại và vận động không dừng lại ở điểm bắt gặp cái chết mà tiếp
tục được phát triển trong ý thức xã hội. Mỗi thời đại sẽ nói lên sự phán xét
của mình về những hiện tượng ấy, và cho dù nó có hiểu đúng đến đâu chăng nữa
thì bao giò nó cũng để dành lại cho thời đại tiếp sau nó nói lên một điều gì đó
mới mẻ và đúng đắn hơn, và chẳng bao giờ một thời đại nào lại có thể nói hết
tất cả . Trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam, có thể coi Truyện Kiều
của Nguyễn Du là một trường hợp tiêu biểu cho sự khai thác những phương diện
khác nhau của tác phẩm qua các thời đại khác nhau như trường hợp mà Biêlinxki
đã nêu lên với Puskin.
Một trong những khái niệm quan trọng để giải thích tính chất
quyết định ý nghĩa và giá trị của tác phẩm qua từng thời kì lịch sử nhất định
là tầm văn hóa hoặc tầm đón nhận của công chúng. Ðây là khái niệm do nhà triết
học và xã hội học người Ðức là Các Manheim nêu ra, được Hans Robert Jauss vận
dụng vào việc nghiên cứu văn học. Jauss phân biệt có sự tiếp nhận bên
trong và sự tiếp nhận bên ngoài. Nếu sự tiếp nhận bên trong chủ yếu mang tính
cá nhân, chủ quan thì tiếp nhận bên ngoài lại mang tính khách quan. ...sự
tiếp nhận bên ngoài là sự gặp gỡ bị qui định bởi những điều kiện khách quan; sự
tiếp nhận ở đây mang những hình thức lịch sử nhất định. Ðó là sự gặp gỡ của một
truyền thống văn hóa này với tác phẩm của một truyền thống văn hóa khác, vì vậy
nó diễn ra trên bình diện xã hội và văn hóa- lịch sử. Chính sự tiếp nhận bên
ngoài này mới tác động quyết định đến sự hình thành và chuyển hóa tầm đón nhận của
độc giả. Tất nhiên, nếu không có sự tiếp nhận bên trong thì sự tiếp nhận bên
ngoài không thể nào phát huy tác dụng một cách sâu xa được.
Trong văn học Việt Nam, vấn đề xác định giá trị của những
tác phẩm thuộc dòng văn học lãng mạn giai đoạn 1930-1945 cũng là một bằng chứng
tiêu biểu cho vai trò của thực tế văn hóa- xã hội- lịch sử trong việc cảm
nhận văn học. Ngay từ khi những bài thơ đầu tiên của phong trào Thơ mới ra đời,
một tầng lớp công chúng mới, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây với những quan
niệm mới về văn học đã nhiệt tình ủng hộ và đánh giá cao thì đồng thời
cũng chịu sự phản ứng quyết liệt của những nhà Nho cũng như những người đọc đã
quen với những chuẩn mực của thơ ca cổ điển. Nếu có thể coi những năm từ 1936
dến 1945 thơ ca lãng mạn được đánh giá là những tác phẩm có giá trị, thì sau
năm 1945 cho đến những năm đầu của thập kỉ 80, tình hình lại hoàn toàn thay
đổi. Do hoàn cảnh chiến tranh với những điều kiện sống khó khăn, ác liêt, do
nhận thức mục đích quan trọng nhất của lịch sử không phải là vấn đề số phận cá
nhân, mơ mộng của con người mà là vấn đề đôc lập dân tộc, vấn đề giải phóng
giai cấp...văn học lãng mạn nói chung và thơ mới nói riêng đã bị xem là một bộ
phận văn học tiêu cực, có hại cho cách mạng...Ở giai đoạn này, không phải chỉ
những nhà phê bình phủ nhận văn học lãng mạn mà ngay chính những nhà thơ lãng
mạn đã tham gia vào cuộc kháng chiến như Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Chế Lan
Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Ðoàn Phú Tứ...cũng đã lên tiếng phủ nhận tác phẩm của
mình. Từ 1986 trở lại đây, do sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội, những tác phẩm
của dòng văn học lãng mạn lại được đánh giá cao với một cái nhìn mới mẻ và sâu
sắc. Người đọc nói chung và giới nghiên cứu phê bình nói riêng laiû phát hiện ở
Thơ mới cũng như ở những tác phẩm của tổ chức Tự lực văn đoàn những khía cạnh
mới mẻ mà hình như trước đó người ta chưa hề phát hiện và khẳng định bộ phận
văn học này đã góp phần to lớn vào quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam
hiện đại.
4.2.2.
Nguyên nhân từ phía bản thân tác phẩm.
Khẳng định giá trị của tác phẩm văn chương từ tính chất chủ
quan, cá nhân cũng như tính chất khách quan do những điều kiện lịch sử- văn hóa
xã hội qui định chủ yếu cũng mới chỉ xác định giá trị của tác phẩm từ phía
người đọc. Nhưng nếu giá trị của tác phẩm văn chương chỉ chịu sự qui dịnh của
người đọc thì sẽ không giải thích được tại sao tác phẩm này lại đứng vững và
tồn tại mãi với thời gian còn tác phẩm khác thì ngược lại ? Thực ra, giá trị
của tác phẩm không chỉ do người đọc, thời đại mang đến mà còn do nguyên nhân
khách quan từ chính bản thân tác phẩm. Và có thể nói đây là nguyên nhân quan
trọng có ý nghĩa quyết định vì nó giúp cho ta giải thích được lí do người
đọc cảm nhận, đánh giá tác phẩm khác nhau. Nói như Khrapchenkô, nội dung của
tác phẩm dù được xem là biến đổi như thế nào trong các thời kì lịch sử khác
nhau vẫn không phải là được mang từ ngoài vào mà là vốn chứa đựng trong bản
thân chúng. Như vậy, giá trị nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật nằm
ngay trong chính bản thân nó nhưng không phải được thể hiện rõ ràng, đơn nghĩa.
Giá trị của tác phẩm được xác định và ý nghĩa của nó được khai thác không giống
nhau một phần hết sức quan trọng là do các đặc điểm nội tại của nó, là do tính
mơ hồ, đa nghĩa ở nhiều phương diện, đặc biệt là ở tính chất và chiều sâu
của những khái quát nghệ thuật mà tác giả thể hiện trong tác phẩm.
Một trong những đặc trưng quan trọng của tác phẩm văn học là
tính mơ hồ, đa nghĩa và cũng từ đặc trưng này, người đọc khó nắm bắt được
đầy đủ và đánh giá thống nhất với nhau về một tác phẩm. Vấn đề này đã được các
nhà lí luận, nghiên cứu văn học đề cập đến từ lâu.Tạ Trân, nhà thi thoại đời
Minh cho rằng: Thơ có chỗ khả giải, bất khả giải, bất tất giải, giống như hoa
dưới nước, trăng trong gương, không cần câu nệ tới dấu tích. Vương Sĩ Trinh
cũng cho rằng thơ khó ở chỗ nếu không giải thích được thì thơ vô vị, mà
giải thích được thì thơ hết vị.
Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, văn học phản ánh đời
sống trong tính toàn vẹn, sinh động thông qua hình tượng nghệ thuật với một cấu
trúc phức tạp, đa dạng nhằm thể hiện những cảm nhận và khái quát của nhà văn về
cuộc đời. Chính vì vậy người đọc không dễ gì nắm bắt được một cách đầy đủ ý
nghĩa vốn có của nó. Sẽ không có gì quá đáng nếu có người coi tính mơ hồ, đa
nghĩa không chỉ là nét đặc trưng của văn học mà còn gắn liền với số phận lịch
sử của nó.
Tính mơ hồ, đa nghĩa trước hết được biểu hiện ở ngôn ngữ.
Ðây vốn là thuộc tính của ngôn ngữ toàn dân nhưng khi sáng tác nhà văn luôn có
ý thức hướng về một ngôn ngữ mang tính hàm súc, đa nghĩa, gợi nên ở người đọc
những cách giải thích, những mối tương quan khác nhau,làm cho một chữ mà nghĩ
ba năm chưa xong, giảng nghìn năm chưa hết(Nguyễn Cư Trinh). Ðây cũng chính
là một trong những nguyên nhân tạo nên sức sống, chiều sâu và giá trị nghệ
thuật cho tác phẩm văn học.
Theo W. Empơxơn, mơ hồ là một ý nghĩa không xác định, một ý
định biểu hiện nhiều loại sự vật, cho phép có nhiều cách giải thích khác nhau.
GS. Trần Ðình Sử đã tóm tắt những loại ý nghĩa mơ hồ của ngôn ngữ văn học mà
Empơxơn đã nêu ra như sau : 1. Nói vật này mà như nói tới vật khác vì giữa
những sự vật ấy có nhiều điểm giống nhau;2. Ý nghĩa mơ hồ do quan hệ ngữ
pháp không chặt chẽ và ngữ cảnh cho phép; 3. Một từ trong một văn cảnh mà giảng
hai nghĩa đều thông; 4. Lời trần thuật của tác giả có mâu thuẩn, không nhất
trí, nhưng đều thể hiện trạng thái chung của tư tưởng của nhà văn;5.Tác giả vừa
viết ý này nhưng lại hé ra một ý khác chân thực hơn thuộc về vô thức; 6. Ý
nghĩa mặt chữ của lời trần thuật vừa trùng lặp vừa mâu thuẫn khiến cho người
đọc có thể giải thích trái ngược nhau; 7. Một từ có hai nghĩa, hai loại giá trị
mơ hồ nhưng lại là hai ý nghĩa trái ngược nhau do văn cảnh qui định.. Sau
Empơxơn, các nhà nghiên cứu cũng nói đến các biện pháp chuyển nghĩa để tạo nên
tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ văn học như mỉa mai, nhại, nghịch lí, song
quan, tượng trưng...
Bên cạnh ngôn ngữ, tính cách nhân vật cũng thường là một yếu
tố tạo nên những cảm nhận khác nhau, đặc biệt là các điển hình nhânhà vănật.
Những nhân vật được xây dựng thành công trong văn học xưa nay thường không bao
giờ đơn giản một chiều mà luôn phong phú, phức tạp. Họ là những con người cụ
thể, sinh động nhưng đồng thời cũng mang trong mình những vấn đề của một thời
đại, những vấn đề của con người nói chung, nó có những nét nhòe, khó xác định
mà không phải thời đại nào cũng có thể hiểu được... Nếu coi tác phẩm văn học
như một hình thức tranh luận của nhà văn về đời sống thì sự tranh luận đó được
thể hiện rõ nét qua các nhân vật mà nhà văn đem hết tâm huyết của mình để xây
dựng nên. Những nhân vật điển hình càng sâu sắc, càng phổ biến bao nhiêu thì
khả năng biểu hiện phẩm chất người ở mức độ này hay mức độ khác qua các thời kì
lịch sử khác nhau càng lớn bấy nhiêu. Hainơ nhận xét về nhân vật Clêôpâtre của
Sêchxpia như sau : Nàng Clêôpâtre đó quả là một người đàn bà. Nàng yêu đồng
thời là phản nghịch. Nàng khiến tôi nghĩ tới một câu nói của Raxin: Thượng đế
khi sáng tạo đàn bà đã dùng một thứ đất quá nhão. Cái chất liệu quá nhão ấy
không đủ đáp ứng với đòi hỏi của sức sống. Cái sản phẩm ấy quá tốt mà cũng quá
ư không tốt. Chỗ đáng yêu nhất của nàng lại chính là cái lí do khiến nàng trở
thành đáng ghét nhất.
Những nét tính cách ở nhân vật Kiều không phải chỉ do người
đọc mang đến và gán cho nàng mà trước hết nằm ngay trong chính bản thân nàng.
Nguyễn Công Trứ không thông cảm với Kiều và coi Kiều như một cô gái hư hõng
không phải hoàn toàn vô lí khi ông đứng trên quan niệm đạo đức phong kiến
và quan niệm sáng tác văn dĩ tải đạo. Cái hư hỏng, nếu có thể gọi là hư hỏng,
nằm ngay trong chính bản thân Kiều khi cô đã vượt quyền cha mẹ, đã xăm xăm
băng lối vườn khuya một mình, đã Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường...mà
hàng trăm năm sau Hoài Thanh cũng như bao nhiêu người khác còn phải ngẫn
ngơ ...Cái suy tính thiệt hơn của Kiều khi khuyên Từ Hải ra hàng không
phải ai cũng có thể thông cảm được...Những người khác cảm phục Kiều, đánh giá
cao tấm lòng nhân hậu, thủy chung, son sắc hoặc khát vọng giải phóng cho ý thức
cá nhân...cũng chính là sự phát hiện ra những phẩm chất vốn có trong chính bản
thân Kiều...Kiều không phải là tấm gương để giáo dục đạo đức phong kiến cho mọi
người mà trước hết và trên hết, nàng là con người của đời, nàng là tiếng nói
của Nguyễn Du về thân phận con người. Ở mỗi thời đại khác nhau, người đọc
lại phát hiện những nét tính cách vốn có ở Kiều phù hợp với quan niệm thẩm
mĩ của mình, với thời đại của mình chứ không thể gán ghép một cách tùy tiện
được.
Trong khi xây dựng các hình tượng nhân vật, nhất là những
nhân vật chính, nhà văn bao giờ cũng gửi gắm vào đó những tư tưởng tình cảm của
mình. Ở những nhà văn lớn, tư tưởng- tình cảm thường cũng không đơn giản, một
chiều mà là một phức hợp, đa dạng bao gồm những nỗi niềm, tâm sự, những lời kí
thác, những điều mà nhà văn gửi gắm cho độc giả với nhiều cách diễn đạt khác
nhau. Nhà văn có thể diễn đạt trực tiếp quan niệm của mình qua ngôn ngữ chính
luận hoặc thông qua hình tượng nghệ thuật, ẩn chứa trong các chi tiết, trong
cách xử lí về không gian thời gian, trong kết cấu, trong giọng điệu...mà không
phải người đọc thời nào cũng chú ý để có thể phát hiện hết được. GS Hoàng Ngọc
Hiến có nhận xét tinh tế về yếu tố giọng điệu để nói lên quan niệm về
cuộc đời mà Nguyễn Du thể hiện thông qua 6 câu triết luận mở đầu như sau
: Muốn hiểu Truyện Kiều , phải bắt được cái giọng của tác giả trong 6 câu triết luận mở đầu. Ðiều quan
trọng trong đoạn mở đầu này không chỉ ở những luật oái oăm, ác hại trong cõi
người ta: Tài mệnh tương đố, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh. Ðiều quan
trọng hơn cả là cái giọng mỉa mai, hờn mát, đay đả của tác giả khi nói đến
những luật này:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ
tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau.
Tác giả không thản nhiên ghi nhận
cái luật oái oăm này. Thái độ của tác giả bao hàm nhiều sắc thái: mỉa mai, hờn
mát, rỡn cợt, châm chọc...Tài mệnh tương đố không phải là tư tưởng của truyện
Kiều. Triết lí của Truyện Kiều là ở cái giọng của tác giả khi nói về tư tưởng
này, nói ở chữ khéo làì xen vào câu tài mệnh tương đố.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cũng như
cách phân tích ở trên, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh không phải là tư
tưởng đích thực của Truyện Kiều. Ở đây, cái giọng của tác giả rất rõ. Trước
luật của đời và luật của trời, Nguyễn Du là một người đáo để với cái
giọng đay đả, đay nghiến của ông :
Lạ gì...Ở đây bộc lộ một thái độ dè bỉu, bực tức, chán ngán.
Khi ta nói lạ gì anh ấy thì hoặc là ta dè bỉu, hoặc là ta bực tức, là ta chán
ngán... anh ấy, chắc chắn không phải là một thái độ thiện cảm.
Ý Kiến của GS Hoàng Ngọc Hiến có gần với chân lí nghệ thuật
hoặc có gần với tư tưởng của Nguyễn Du đến đâu có lẽ còn cần phải bàn bạc nhưng
có một điều không thể phủ nhận là yếu tố giọng điệu đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong văn học và yếu tố đó cũng mang tính phức điệu, đa dạng...trong
việc biểu hiện tư tưởng và tình cảm của tác giả mà người đọc không dễ gì phát
hiện được. Ðiều này cũng được Khrapchencô khẳng định: Cùng với giọng điệu cơ
bản trong tác phẩm nghệ thuật còn có một hệ thống các sắc điệu phức tạp, với vô
vàn nhánh ngành vốn có trong các bộ phận lớn của thiên truyện, trong câu truyện
kể về những hiện tượng quan trọng nào đó của đời sống cũng như trong sự miêu tả
các nhân vật, các tình tiết riêng lẻ .
Có thể nói tác phẩm có bao nhiêu yếu tố là có bấy nhiêu chỗ
để nhà văn gửi gắm tâm sự của mình, từ những từ ngữ đơn giản đến toàn bộ cấu
trúc phức tạp và đa dạng. Chính sự đa dạng và phức tạp đó tạo nên sự đa dạng và
phức tạp của nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Ðiều này cũng có nghĩa
là giá trị của tác phẩm nằm trong chính những yếu tố nội tại của bản thân tác
phẩm, trong tính chất và chiều sâu của những khái quát nghệ thuật được thể hiện
trong tác phẩm. Nhưng những giá trị đó không đứng yên mà luôn vận động tùy
thuộc vào sự vận động của đời sống, lí tưởng thẩm mĩ của từng thời đại và năng
khiếu cũng như kinh nghiệm của người cảm thụ. Khrapchenkô đã nói về một tiêu
chuẩn khách quan để xác định giá trị của tác phẩm văn học Tiêu chuẩn đó
là sự tương quan giữa những đặc tính nội tại của nó, những khái quát của nó,
với sự vận động của đời sống, với xu thế phát triển của đời sống, sự tương quan
với thực tại, với kinh nghiệm tinh thần chẳng những của thời gian nghệ sĩ sáng
tác ra tác phẩm mà còn của cả những thời đại về sau".
Trong cảm thụ và phê bình văn học, có một thực tế không thể chối
cãi được là có thể có những cách lí giải và đánh giá khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau về tác phẩm nhưng không phải chỉ có một cách lí giải và đánh giá
được coi là đúng đắn còn những cách lí giải khác đều sai. Ðôi khi nếu xem xét
vấn đề này trên một bình diện lịch sử rộng lớn thì số lượng khá đáng kể
những cách lí giải không giống nhau nhiều khi hóa ra lại là tương đối đúng. Và
đây cũng chính là sự khác biệt quan trọng trong việc xác định những giá trị
giữa văn học nghệ thuật với các ngành khoa học chính xác khác. Dĩ nhiên nói như
thế không có nghĩa là mọi sự đánh giá tác phẩm đều đúng đắn và gần với chân lí
nghệ thuật. Khẳng định vai trò của người đọc, khẳng định nhu cầu tinh thần và
thẩm mĩ của thời đại trong việc đánh giá, thưởng thức tác phẩm là cần
thiết và là một thực tế nhưng cần nhớ mọi sự thẩm định đều không thể tách rời
với những yếu tố cấu tạo nên tác phẩm. Thiếu một thái độ chân thành, đồng cảm
và khách quan, người đọc khó có thể tiếp cận và đánh giá đúng đắn những giá trị
đích thực của tác phẩm văn học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét