Chương 7 :
LOẠI
TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
- ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
- Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới
chủ quan của con người
- Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan
nhằm thể hiện thế giới chủ quan
- Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình
- Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình
- Lời văn trong tác phẩm trữ tình
- PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH
- TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH
-----------------------------------------------------
I. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
1. Tác phẩm trữ tình
biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người
Nghệ thuật nói chung,
văn học nói riêng là sự biểu hiện thế giới chủ quan của con người trước cuộc
đời. Tuy nhiên, do phương thức tổ chức, do kiểu tái hiện đời sống và do sự giao
tiếp nghệ thuật khác nhau nên sự biểu hiện đó ở những loại tác phẩm văn học
cũng khác nhau. Trong tác phẩm trữ tình; tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy
nghĩ,... được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở
đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ
một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào.
Trong ca dao:
Hôm qua tát nước đầu
đình.
Bỏ quên chiếc áo trên
cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin
trong nhà
Trong thơ Á Nam Trần
Tuấn Khải (sau này nhiều người cho là ca dao).
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ
cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm
sương
Nhớ ai tát nước bên
đường hôm nao.
Bốn câu thơ trên thể
hiện tình cảm của người ra đi đối với quê hương, đối với người thương..., là
nỗi buồn, là sự nhớ nhung lúc xa xôi cách trở. Ngoài những tình cảm, nỗi niềm
đó, người đọc không biết gì cụ thể hơn về chàng trai và cô gái, về mối quan hệ
cụ thể của hai người với nhau.
Bài Nguyên đán của Xuân
Diệu cũng thể hiện rõ đặc điểm này:
Xuân của đất trời nay
mới đến
Trong tôi xuân đến đã
lâu rồi
Từ độ yêu nhau hoa nở
mãi.
Trong vườn thơm ngát của
hồn tôi.
Trong bốn câu thơ trên,
không hề có mâu thuẫn, xung đột như trong kịch, cũng không có những biến cố, sự
kiện, hệ thống sự kiện nào. Ðiều mà người đọc cảm nhận chủ yếu là niềm vui,
hạnh phúc, là tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Như vậy, từ ca dao đến
những tác phẩm thơ ca hiện đại, người đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội
tâm, là thái độ xúc cảm và tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người,
cuộc đời và thiên nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người
và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này chứng tỏ sự
biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu, đầu
tiên của tác phẩm trữ tình.
2. Tác phẩm trữ tình
phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan.
Tác phẩm trữ tình biểu
hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng được xác lập trong mối
quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng,
suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước
vấn đề gì...Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được thể hiện trong tác phẩm trữ
tình. Chế Lan Viên đã nói lên mối quan hệ này qua những câu thơ:
- Thơ, thơ đong từng
ngao nhưng tát bể
Là cái cân nhỏ xíu lại
cân đời.
- Bài thơ anh, anh làm
một nửa mà thôi
Còn một nửa cho mùa thu
làm lấy.
Người ta có thể bắt gặp
một bài thơ miêu tả một bức tranh phong cảnh thiên nhiên. Trong bài Ðây thôn Vĩ
Giạ của Hàn Mặc Tử, ngoài những nét chấm phá về một bức tranh thiên nhiên với
những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế...là tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ.
Mơ khách đường xa, khách
đường xa
Áo em trắng quá nhìn
không ra
Ơí đây sương khói mờ
nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm
đà.
(Ðây thôn Vĩ Giạ. Hàn
Mặc Tử.)
Có những bài thơ có ít
nhiều sự kiện khá liên tục- đó là những câu chuyện được kể lại một cách ngắn
gọn. Những sự kiện, biến cố ở đây không được miêu tả chi tiết, tỉ mỉ...mà được
thể hiện hết sức cô đọng. Các bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính, Núi Ðôi
của Vũ Cao, Bà má Hậu Giang của Tố Hữu...nằm trong trường hợp này. Qua bài Quê
hương của Giang Nam ,
người đọc có thê kể một số nét chính về mối quan hệ giữa chàng trai và cô gái
một cách khá liên tục nhưng chức năng chủ yếu của hệ thống sự kiện đó là để
nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, suy tưởng. Chúng làm cho tình cảm được bộc lộ
dễ dàng, gợi cảm.
Xưa yêu quê hương vì có
chim có bướm.
Có những lần trốn học bị
đòn roi
Nay yêu quê hương vì
trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt
của em tôi.
(Quê hương- Giang Nam .)
Mặc dù thể hiện thế giới
chủ quan của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự
vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh
động. Những chi tiết chân thật, sinh động trong đời sống dễ khêu gợi những tình
cảm sâu sắc, mới mẻ. Có điều những chi tiết trong tác phẩm trữ tình bao giữ
cũng hết sức cô đọng, súc tích.
Như vậy, tác phẩm trữ
tình cũng phản ánh thế giới khách quan nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm
biểu hiện những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ...của con người.
3. Tình cảm điển hình
trong tác phẩm trữ tình.
Tác phẩm trữ tình bao
giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ðó là những nỗi niềm chủ quan thầm
kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng mình lên thành người mang tâm
trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người, một thế hệ và cả những chân lí phổ
biến...Người ta thường nói đến từ chân trời của cái "tôi" đến chân
trời của cái "ta", "từ chân trời của một người đến chân trời
của tất cả" cũng trên ý nghĩa này. Biêlinnki đã diễn đạt điều đó bằng
một câu nói hàm súc: "Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại
nếu chỉ do ở mình và miêu tả mình - dù là miêu tả những nỗi đau của mình hay
những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là vì những
đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ hoãng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi
vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại".
Tóm lại, trong tác phẩm
trữ tình, nhà thơ trực tiếp bộc lộ những tình cảm yêu thương, căm giận của mình
trước hiện thực cuộc đời. Ởí đây, tình cảm riêng tư của nhà thơ bao giờ cũng
giữ vai trò quan trọng tạo nên giá trị của tác phẩm. Những tác phẩm trữ tình có
giá trị được người đọc yêu mến xưa nay bao giờ cũng thắm đẫm suy tư và dằn vặt
của cá nhân nhưng đồng thời cũng đánh động tình cảm, tâm trạng ...của cả một
lớp người, một thời đại nhất định.
4. Nhân vật trữ tình
trong tác phẩm trữ tình.
Nội dung tác phẩm trữ
tình gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình (có người gọi là chủ thể trữ
tình). Ở đây, cần phân biệt rõ 2 khái niệm: nhân vật trữ tình và nhân vật trong
tác phẩm trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi
gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi
nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối tượng để nhà
thơ miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về
lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm. Khi đọc một bài thơ, trước
mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con
người mà còn một hình tượng của một ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về
chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Ðó là
tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng...mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.
Phần lớn nhân vật trữ
tình xuất hiện với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư... của chính
bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải
là hiện thân của tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ
tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân
vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi
đây là những nhân vật trữ tình nhập vai.
5. Lời văn trong tác
phẩm trữ tình.
Là hình thức của tác
phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm tự sự và kịch đều mang tính
chính xác, gợi cảm, hình tượng, hàm súc. Tuy nhiên, lời thơ cũng có những đặc
điểm riêng.
Trước hết, đó là lời của
chủ thể, thường bộc lộ trực tiếp sự đánh giá, nhận xét về đối tượng, trực
tiếp thể hiện cảm xúc ca ngợi, khẳng định hoặc phê phán, phủ định. Chính vì
vậy, sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong tác phẩm trữ tình- chủ yếu là
trong thơ- luôn luôn nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng
cảm hoặc phê phán của chủ thể trở nên nổi bật.
Lời văn trong tác phẩm
trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm mạnh mẽ, những ý tập trung, hàm súc do
đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù hợp với yêu cầu gây ấn tượng mạnh,
không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ
ngữ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người khẳng định đặc điểm quan trọng
nhất của lời văn trong tác phẩm trữ tình là giàu nhạc tính. Nhạc tính
này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác nhau. Trong thơ
Việt Nam ,
tính nhạc thường được biểu hiện ở các mặt: sự cân đối, trầm bỗng, nhịp nhàng và
trùng điệp.
II. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ
TÌNH.
Phạm vi của tác phẩm trữ
tình rất rộng. Có thể kể đến các khúc ngâm, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc.
Những đặc điểm chung của tác phẩm trữ tình được biểu hiện tập trung và tiêu
biểu nhất là trong tác phẩm thơ trữ tình.
Tùy theo truyền thống
thơ ca của từng nước, người ta có nhiều cách phân loại thơ trữ tình khác nhau.
Ở phương Tây, có những cách phân loại:
1. Dựa vào đặc điểm cảm
xúc:
Có thể chia thành bi ca,
tụng ca, thơ trào
phúng.
- Bi ca: là những bài
thơ buồn và những nỗi buồn đó được nâng lên thành quan niệm, thành triết lí.
Chẳng hạn, trong bài Hoa nở để mà tàn, Xuân Diệu viết:
Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để chia tan
Người gần để li biệt.
- Tụng ca là những bài
thơ ca ngợi những sự kiện anh hùng, những chiến công của con người, những
cảnh tượng hùng vĩ của non sông đất nước. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên, Tố
Hữu có thể được coi là tụng ca.
- Thơ trào phúng là một
dạng trữ tình đặc biệt, trong đó tác giả phủ nhận những điều xấu xa bằng một
giọng văn châm biếm, mĩa mai, trào lộng. Nhiều bài thơ của Tú Xương, Tú Mỡ,...
thuộc loại này.
2. Dựa vào đối tượng
miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ.
Có thể phân thơ trữ tình
thành các loại: trữ tình tâm tình, trữ tình thế sự, trữ tình công dân, trữ tình
phong cảnh.
- Trữ tình tâm tình là
những bài thơ gắn liền với những tình cảm trong mối quan hệ hằng ngày: tình yêu
nam nữ, tình vợ chồng, tình cha mẹ, anh em...
- Trữ tình thế sự: là
những bài thơ nghiêng về những xúc động về cuộc đời với tính chất "nhân
tình thế thái"
Trong những thời kì lịch
sử có nhiều biến đọng, nhiều giá trị chưa được xác định rõ ràng, thơ trữ tình
thế sự gợi ý cho người sọc những suy tư, băn khoăn, trăn trở về thực trạng xã
hội. Nhiều bài thơ của Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương...là những
tiếng nói trữ tình thế sự có giá trị.
- Trữ tình công dân là
những bài thơ nói lên những cảm xúc, tình cảm, suy tư của nhà thơ trong mối
quan hệ với xã hội, với chế độ chính trị...Ở đây, nhà thơ lấy tư cách công dân
để cổ vũ, ca ngợi sự nghiệp của nhân dân và lên án kẻ thù chung. Nhiều bài thơ
trong văn học Việt Nam
giai đoạn chống Pháp, chống Mĩ thuộc loại này.
- Trữ tình phong cảnh là
những bài thơ nói lên những cảm xúc của con người với thiên nhiên: cây cỏ, núi
non, sông biển, cảnh đẹp của quê hương, đất nước.
Những sự phân loại thơ
trữ tình trên đây chỉ có tính chất tương đối. Thế giới nội tâm của con người vô
cùng phong phú, phức tạp, tinh tế và có trăm nghìn mối quan hệ khó có thể phân
biệt một cách rạch ròi. Trong trữ tình tâm tình cũng có trữ tình phong cảnh,
trữ tình thế sự, trữ tình công dân và ngược lại. Ơí đây, sự phân loại chỉ nhằm
giúp người đọc nhân ra cảm hứng chủ đạo, khuynh hướng nghệ thuật của nhà thơ.
III. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ
TRỮ TÌNH.
1. Ðề thơ.
Nơi thể hiện tinh thần
cơ bản của nội dung bài thơ, gợi ý cho người đọc hiểu chủ đề chính của bài thơ,
giúp họ nhớ và phân biệt với hững bài thơ khác. Cũng có khi có những bài thơ
không có đề (vô đề). Ơí đây, có thể tác giả muốn để người đọc, qua nôi dung bài
thơ, suy ngẫm và tưởng tượng mà tự hiểu. Ðề thơ có thể chỉ nên được coi như một
định hướng để hiểu đúng bài thơ.
2. Dòng thơ, câu thơ.
Dòng thơ là đặc điểm
quan trọng nhất của sự tổ chức ngôn ngữ thơ. Trong các thể thơ cách luật, số
chữ mỗi dòng có sự qui định chặt chẽ. Ơí thơ tự do, không có sự qui định đó
nhưng thường mỗi dòng thơ cũng không quá 12 chữ.
Câu thơ là dòng thơ diễn
đạt trọn vẹn một ý. Thông thường, mỗi câu thơ là một đìng thơ. tuy nhiên, có
khi hai ba dòng thơ mới thành một câu thơ:
Ơi! Kháng chiến, mười
năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức
soi đường. (Chế Lan Viên)
3. Khổ thơ, đoạn thơ
Sự kết hợp của các câu
thơ thành từng nhóm thống nhất với nhau về vần, nhịp, cú pháp, ngữ điệu. Mỗi
khổ thơ được kết thuc bằng một khoảng nghỉ dài. Trong những bài thơ ngắn, mỗi khổ
thơ có thể là một đoạn thơ nhưng trong nhiều trường hợp, nhiều khổ thơ mới
thành một đoạn thơ.
Ðoạn thơ là sự tập họp
nhiều câu thơ chằm diễn đạt một ý tương đối trọn ven, hoàn chỉnh. Sự phân đoạn
một bài thơ chủ yếu dựa vào ý chứ không phụ thuộc vào vần, bhịp, cú pháp như
khổ thơ. việch phân đoạn dựa vào ý thơ là một yếu tố khó xác định nên các nhà
nghiên cứu có thể có sự phân đoạn các bài thơ cụ thể không giống nhau.
4. Tứ thơ, Bài thơ.
Tứ thơ là ý
lớn xuyên suốt bài thơ nhưng ý ấy không được nói thẳng ra mà hòa quyện, biến
hóa qua hình tượng có nhiều tìm tòi, sáng tạo của nhà thơ. Nói cách khác, một
bài thơ có tứ là một bài thơ có tìm tòi, sáng tạo về mặt thể hiện ý của toàn
bài một cách mới mẻ, thú vị. Tứ thơ thể hiện đậm nét cách nhìn, cách cảm, cách
nghĩ... của nhà thơ.
Bài thơ là một tác phẩm
hoàn chỉnh, có cấu trúc nội tại, là sự tổng hợp từ đề thơ, dòng thơ, câu thơ,
khổ thơ, đoạn thơ, tứ thơ. Mỗi bài thơ có độ dài ngắn khác nhau và dĩ nhiên giá
trị của mỗi bài thơ phụ thuộc vào nội dung tư tưởng va hình thức nghệ thuật của
nó chứ không phải ở chỗ ngắn dài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét