Chương 5:
LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG
TÁC PHẨM VĂN HỌC
I. NGÔN NGỮ VÀ LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
1. Phân biệt ngôn ngữ và
lời văn (lời nói)
Trong "Giáo trình
ngôn ngữ học đại cương", F. De Saussure đã đưa ra một phân biệt nổi tiếng
giữa ngôn ngữ (langue) và lời nói (parole). Theo ông, ngôn ngữ là một hệ thống
kí hiệu tạo thành một kho tàng dự trữ trong tư duy của một cộng đồng người. Mỗi
kí hiệu bao gồm hai phương diện gắn liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy:
cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt trong ngôn ngữ gọi là vỏ vật
chất còn cái được biểu đạt là khái niệm. Giữa chúng có mối quan hệ võ đoán
tuyệt đối hay tương đối do qui ước của xã hội mà nhiều khi không thể giải thích
một cách tường tận được.
Lời nói là sản phẩm của
cá nhân, là sự vận dụng kho tàng ngôn ngữ của từng người trong từng hoàn cảnh
cụ thể. Ngôn từ trong tác phẩm là một kiểu lời nói (lời văn) nghệ thuật do nhà
văn sáng tạo trên cơ sở sản phẩm xã hội mà ông ta tiếp thu được. Lời văn nghệ
thuật này chính là đối tượng của sự tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học.
2. Lời văn trong tác
phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật.
Ðặc
điểm chung của văn học nghệ thuật là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nhưng
trong mỗi bộ môn và loại hình nghệ thuật khác nhau, các hình tượng có những đặc
điểm cụ thể riêng. Những đặc điểm cụ thể đó của hình tượng được qui định bởi
chất liệu và phương tiện riêng. Trong nghệ thuật tạo hình, hội họa sử dụng đường
nét, màu sắc; điêu khắc dùng hình khối nhằm trực tiếp miêu tả các hiện tượng
của đời sống. Trong nghệ thuật biểu hiện, âm nhạc sử dụng âm thanh, múa dùng
điệu bộ, dáng vẻ đã được cách điệu hóa...Trong loại hình nghệ thuật tổng hợp,
người ta sử dụng nhiều phương tiện của các ngành nghệ thuật khác nhau nhằm phục
vụ cho việc diễn xuất.
Văn học, một loại hình
nghệ thuật độc lập, phát triển song song với các loại hình nghệ thuật khác
nhưng lấy ngôn ngữ làm phương tiện diễn đạt. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn
học. Tuy nhiên ngôn ngữ không phải là phương tiện diễn đạt riêng của văn học.
Nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống cũng sử dụng ngôn ngữ. Vậy, ngôn ngữ
văn học có gì khác so với các lĩnh vực khác?
3. Ðặc trưng của lời văn
nghệ thuật.
1.3.1. Tính chính xác,
trong sáng có thể được coi là đặc trưng đầu tiên của lời văn nghệ thuật. Chỉ với
những lời văn chính xác, trong sáng, nhà văn mới có thể biểu hiện một cách đúng
đắn và đầy đủ những sắc thái, cảm xúc, những điều mà nhà văn muốn diễn đạt.
Ngôn ngữ nói chung có thể diễn đạt được mọi thứ nhưng để đạt được điều đó, nhà
văn phải vật lộn, học hỏi, tích lũy... Nói như một nhà văn: "Trên đời
không có sự giày vò nào ghê gớm hơn sự giày vò của ngôn ngữ" hoặc như
Maiacôpxki từng viết:
Làm
thơ
Chẳng
khác gì khai thác
Chất
hiếm radium
Lấy một gam
Mất
hàng năm lao lực
Chỉ
mỗi một từ
Có khi
mất đứt
Hàng trăm nghìn
Tấn
quặng xỉn ngôn từ.
(Nói
chuyện với người thanh tra tài chánh)
Tính chính xác của lời
văn nghệ thuật cần được hiểu không phải theo nghĩa cơ giới, toán học mà là sự
diễn đạt hoàn hảo nhất một tâm trạng, một sự vật, một ý nghĩ, một hiện tượng
bằng một từ duy nhất đúng. Guy de Maupassant cho rằng "Ðối tượng mà anh
(nhà văn) muốn nói đến, dù là cái gì đi nữa, cũng chỉ có một từ biểu hiện
nó". Người ta thường nhắc đến việc chọn lựa từ ngữ trong sáng tạo nghệ
thuật qua câu chuyện "thôi, xao". Một hôm, Giả Ðảo (779-843), một nhà
sư hoàn tục cưỡi ngựa về Tràng An. Ông đương bận nghĩ đến 2 câu thơ vừa mới
sáng tác:
Ðiểu túc trì biên tụ
Tăng thôi nguyệt hạ
môn"
(Chim đậu ở cây bờ ao
Nhà sư đẩy cửa dưới
trăng)
Giả Ðảo băn khoăn không
biết nên dùng chữ thôi (đẩy cửa) hay xao (gõ cửa). Ông buông cương, huơ
tay bắt chước nhà sư lúc đẩy cửa, lúc gõ cửa. Ngựa đi vào đám quân của một vị
quan đang đi kinh lí. Quân lính bắt Giả Ðảo trình quan. May thay, viên quan đó
chính là Hàn Dũ. Sau khi nghe Giả Ðảo bày tỏ sự việc, Hàn Dũ suy nghĩ và góp ý
nên dùng chữ "xao" (gõ). Có lẽ gõ gợi lên được hình tượng về âm
thanh. Sau này, người ta thường dùng chữ "thôi, xao" với ý
nghĩa là cân nhắc từng chữ để sửa chữa bài văn, bài thơ cho thật tốt.
Trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã dùng hàng loạt các từ khác nhau để chỉ người phụ nữ nhưng ở mỗi
lời văn lại có những sắc thái khác nhau:
- Ðau đớn thay phận đàn
bà
Lời rằng bạc mệnh cũng
là lời chung.
- Hồng quân với khách
hồng quần
Ðã xoay đến thế vần vần
chưa tha.
- Rằng: hồng nhan tự
thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có
chừa ai đâu.
- Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má
hồng đánh ghen.
- Canh khuya bức gấm rủ
thao
Dưới đèn tỏ rạng má đào
thêm xuân.
- Cớ sao chị tốt một bề
Gái tơ mà đã ngứa nghề
sớm sao…
Lời văn nghệ thuật đòi
hỏi nhà văn phải lựa chọn nghiêm khắc để có được những từ diễn đạt một cách đắc
địa nhất tư tưởng, tình cảm của mình.
1.3.2. Tính hàm súc. Ðặc
điểm này bắt nguồn từ nguyên tắc tiết kiệm trong ngôn ngữ, nghĩa là nói
và viết sao cho "lời chật mà ý rộng", là sử dụng một số lượng chất
liệu tối thiểu mà đạt được hiệu quả nghệ thuật tối đa. Mượn ý của Tô Ðông Pha,
Lê Quí Ðôn viết: "Ý hết mà lời dừng, ấy là cái lời rất mực trong thiên
hạ. Song lời dừng mà ý chưa hết được lại càng hay tuyệt".
1.3.3. Tính mơ hồ, đa
nghĩa cũng là một đặc điểm của lời văn nghệ thuật dù đây cũng là đặc điểm dễ
nhận thấy trong lời nói hằng ngày. Trong văn học, tính mơ hồ, đa nghĩa được
nhân lên và trở thành một đặc điểm nổi bật bởi vì người nghệ sĩ thường hướng
tới lời văn mơ hồ, đa nghĩa nhằm tạo nên những tầng lớp nghĩa khác nhau, nhằm
"khêu gợi vô số những tư tưởng, những quan niệm, những cách giải
thích". Ðiều này về bản chất có thể phân biệt khá rõ giữa lời văn nghệ
thuật và lời văn trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống.
1.3.4. Tính tạo hình và
biểu cảm. Một đặc trưng có tầm quan trọng nhất nhằm phân biệt lời văn nghệ
thuật với lời văn thuộc các lĩnh vực khác là tính tạo hình và biểu cảm. Tạo
hình là tạo nên một lời văn giàu hình ảnh, tái tạo đối tượng trong hình
thái cụ thể, không lặp lại của nó. Chỉ bằng tính chất tạo hình, nhà văn mới làm
sống lại một cách cụ thể , cảm tính những dáng vẻ riêng biệt . Bên cạnh đó, lời
văn nghệ thuật còn biểu hiện những cảm nhận độc đáo của nhà văn với tư cách là
nghệ sĩ và những nhà văn lớn bao giờ cũng có những độc đáo trong phong phong
cách. Tsêkhôp quan niệm "nếu tác giả nào không có lối nói riêng của
mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả"
Hai phẩm chất tạo hình
và biểu cảm được kết hợp một cách hữu cơ, xuyên thấm vào nhau và trong nhiều
trương hợp, khó thể tách rời. Vì vậy cần nhìn chúng là một đặc điểm thống nhất
của lời văn nghệ thuật: tạo hình để biểu cảm, biểu cảm để tạo hình, trong tạo
hình có biểu cảm và ngược lại.
Lời văn nghệ thuật của
tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng có chức năng xây dựng hình tượng nên luôn luôn
mang tính thẩm mĩ cao.
II. CÁC PHƯƠNG TIỆN XÂY DỰNG LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
Lời văn nghệ thuật được
xây dựng từ tất cả những khả năng và phương tiện của ngôn ngữ toàn dân trên mọi
bình diện từ ngữ âm, từ vựng, cú pháp, các phương thức tu từ...đến các hình
thức ngôn từ vốn có trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc như từ cổ, tiếng địa
phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở thành di sản nghệ thuật dân tộc. Như
vậy, những phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật cũng được sử dụng trong
những lĩnh vực khác nhưng điểm khác nhau ở đây là lời văn nghệ thuật có chức
năng xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc thù. Có thể xét các phương tiện xây
dựng lời văn nghệ thuật trên các góc độ:
1. Xét từ góc độ ngữ âm.
Lời văn nghệ thuật gắn
liền với các yếu tố: thanh, vần, âm, nhịp điệu...Những yếu tố này thường tạo
được những hiệu quả đáng kể. Trong văn học, khi nhà văn chọn lựa thanh bằng
hoặc trắc, trầm hay bỗng, mở hay khép, nhịp điệu khoan hay nhặt...đều có ảnh
hưởng đến việc biểu hiện nội dung. Người xưa thường nói "Thi trung hữu
nhạc". Lê Ðình Diên viết: "Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là
sự hổ trợ của thơ, tình rung động phát ra thành thanh, người ta có thanh
mà sau đó có ý".
Chẳng hạn, giọng điệu
của một nhân vật trong Sống mòn của Nam Cao: "Tiền giai đưa gái có đòi
được cái đếch người ta". bốn phụ âm đ gần nhau, tạo ra một giọng điệu
bất cần, có phần đểu cáng. Hoặc "Tiếng cười vỡ lở ra, ằng ăc, hi hí, hô
hố". Các câu thơ của Tản Ðà:
Tài cao phận thấp chí
khí uất
Giang hồ mê chơi quên
quê hương.
Có 5 thanh trắc cuối và
hai phụ âm cuối tắt thanh hầu (p,t) tạo nên sự uất nghẹn. Bảy thanh bằng kết
hợp với các âm cuối vang (n, ng), 3 âm tiết mở (ô, ê, ê) tạo nên sự rộng mở,
thanh thoát, phù hợp với tâm trạng thoát trần.
Như vậy, sự kết hợp các
yếu tố thanh, vần, nhịp điệu...có những vai trò nhất định góp phần diễn đạt
những sắc thái khác nhau của lời văn trong tác phẩm nghệ thuật.
2. Xét từ góc độ từ
vựng.
Là toàn bộ các từ trong
một ngôn ngữ. Ðây là
phương tiện tạo hình và biểu cảm vô cùng quan trọng để tạo nên lời văn nghệ
thuật. Có thể kể các loại: từ đồng nghĩa , phản nghĩa, tiếng nghề nghiệp, tiếng
địa phương, tiếng nước ngoài đã được việt hóa, từ tôn giáo..Ðể tạo nên lời văn
nghệ thuật, nhà văn phải tích lũy cho mình một vốn từ phong phú để sử dụng lúc
lúc, đúng chỗ. Chế Lan Viên có những câu thơ rất hay về vấn đề này:
Mỗi ngày gặp một người,
họ là một mảnh của thiên tài nhân loại.
Máu và mồ hôi người góp
nên bao hình ảnh ngữ ngôn,
Vạt áo của triệu nhà thơ
không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vải
Tất cả, một người, dù lạ
hay quen đều viết cho thơ anh một chữ.
Hãy nhặt những chữ của
đời mà viết nên trang,
3. Xét từ góc độ ngữ
nghĩa.
Các phương tiện chuyển
nghĩa là một biện pháp nghệ thuật được nhà văn sử dụng để tạo nên những khả năng
biểu hiện của lời văn. Ðó là các phương thức chuyển nghĩa dựa vào sự tương ứng
của hai hiện tượng, hay dùng hiện tượng này để nhận thức và giải thích hiện
tượng kia. Chức năng chung của các phương tiện chuyển nghĩa là làm hiện lên sự
vật, hiện tượng trong các tương quan ý nghĩa khác nhau. Có thể nói đến các
phương thức chuyển nghĩa tiêu biểu:
2.3.1. So sánh.(Ví von)
là hình thức được sử dụng quen thuộc nhất trong tác phẩm văn học. Nó đối
chiếu hai hay nhiều đối tượng có một dấu hiệu chung nào đó (nét giống nhau)
nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng.
- Ðôi ta làm bạn thong
dong.
Như đôi đũa bạc nằm
trong mâm vàng. (ca dao).
- Lòng em như quán bán
hàng
Lòng anh như khách qua
đàng dừng chân. (ca dao).
- Nhớ ai như nhớ thuốc
lào
Ðã chôn điếu xuống lại
đào điếu lên (ca dao).
So sánh thường dùng các
liên từ: như , giống như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, giữa hai vế nhiều người vẫn không sử dụng từ so sánh:
- Lòng anh, giếng ngọt
trong veo.
Trăng thu trong vắt,
biển trời trong xanh (ca dao).
- Con gặp lại nhân dân
như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim
én gặp mùa
Như đứa trẻ
thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp
cánh tay đưa
2.3.2. Ẩn dụ. (ví ngầm)
là biện pháp so sánh ngầm trong đó chỉ có vế so sánh xuất hiện nhưng nhờ sự
liên tưởng và văn cảnh, người đọc vẫn có thể liên hệ được đến đối tượng được so
sánh:
- Thuyền về có nhớ bến
chăng?
Bến thì một dạ khăng
khăng đợi thuyền .
- Tiếc thay một đóa trà
mi
Con ong đã tỏ đường đi
lối về (Kiều)
- Em tưởng nước giếng
sâu em nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng cạn, em
tiếc hoài sợi dây. (ca dao).
2.3.3. Nhân hóa là hiện
tượng nghệ thuật sử dụng từ vốn chỉ thuộc tính, khả năng của con người
chuyển sang biểu thị thuộc tính, khả năng của đối tượng không phải người.
- Vì sương nên núi bạc
đầu
Biển lay bởi gió, hoa
sầu vì mưa (ca dao)
Hoặc trò chuyện, bày tỏ
với một đối tượng không phải người:
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng
thấy người thương (ca dao)
2.3.4. Phúng dụ là một
ẩn dụ được phát triển bao trùm toàn bộ tác phẩm, thường mang tính chất
ngụ ý. Ðây là sự tổ chức các hình ảnh sinh động, cụ thể để biểu thị một ý niệm
về triết lí, nhân sinh dựa trên cơ sở liên tưởng những nét tương đồng giữa các
hình ảnh sinh động và ý niệm về triết lí nhân sinh. Vì vậy, phúng dụ bao giờ
cũng có 2 ý nghĩa: ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa bề sâu.
- Trong đầm gì đẹp bằng
sen
Lá xanh bông trắng lại
chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá
xanh
Gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn.
- Con kiến mày leo cành
đa
Leo phải cành cụt leo ra
leo vào
Con kiến mày leo cành
đào
Leo phải cành cụt leo
vào leo ra
Những bài thơ Nhớ rừng
của Thế Lữ, Con cáo và tổ ong, Bài ca sợi chỉ, Nhóm lửa... của Hồ Chủ Tịch
đều được viết theo biện pháp phúng dụ. Loại này thường được sử dụng trong
thơ, truyện ngụ ngôn.
2.3.5. Tượng trưng. Khi
hoán dụ, ẩn dụ được sử dụng quen thuộc, được cố định lại trong tư duy của con
người, trở thành hình ảnh có tính chất ước lệ, được gọi là tượng trưng. Chẳng
hạn, chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình, diều hâu tượng trưng cho chiến
tranh; tùng, cúc, trúc, mai làm người ta liên tưởng đến phẩm giá của con người.
Con cò trong ca dao thường tượng trưng cho thân phận vất vả của người phụ nữ,
người nông dân hiền lành, chất phát. Hình ảnh con cò được thể hiện thật cảm
động trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương:
Quanh năm buôn bán ở mom
sông
Nuôi đủ năm
con với một chồng
Lặn lội thân cò khi
quãng vắng
Eo seo mặt nước buổi đò
đông.
2.3.6. Khoa trương là
lối dùng từ cố ý thay đổi kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật nhằm đạt đến
mục đích làm rõ bản chất của đối tượng và tăng hiệu quả biểu hiện:
Chìm đáy nước cá lờ lờ
lặn.
Lững lưng trời nhạn ngẫn
ngơ sa
Hương trời
đắm nguyệt say hoa
Tây Thi khiếp vía Hằng
Nga giật mình.
(Cung oán ngâm khúc)
Trong truyện Lang Rận,
Nam Cao miêu tả bộ mặt của Lang Rận qua cái nhìn của bà Cựu: "Cái mặt ấy
cho dù mỗi ngày có rửa ba lượt xà phòng, bà Cựu trông thấy vãn còn buồn
nôn"
2.3.7. Nhã ngữ. Ngược
lại với khoa trương. Ðây là lối dùng từ cố ý giảm đi mức độ của kích thước, tính
chất, hiệu quả của sự vật, hiện tượng nhằm thể hiện một tình cảm nào đó và
thường được sử dụng để nói về cái chết:
- Bác đã lên đường theo
tổ tiên (Tố Hữu)
- Bác Dương thôi đã thôi
rồi
Nước mây man mác ngậm
ngùi lòng ta (Nguyễn Khuyến)
2.3.8. Phản ngữ vận dụng
các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong
một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả:
- Ðức chúa trời của
chúng mặt Sa Tăng. (Chế Lan Viên)
- Anh đã chết rồi, anh
còn sống mãi (Tố Hữu)
2.3.9. Chơi chữ là cách
tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp
nhằm tạo ra một phần tin khác với phần tin cơ sở. Phần tin khác này mang nghĩa
hoàn toàn mới, bất ngờ mà về bản chất không liên quan gì với phần tin cơ sở.
- Bà già đi chợ cầu Ðông
Bói xem một qủ có chồng
lợi chăng
Ông thầy xem quẻ đoán
rằng
Lợi thì có lợi nhưng
răng không còn. (Ca dao)
-Dỡ dang dang dỡ vì sông
Ngày làm công nhật đêm
trông dạ chàng (ca dao)
- Trăng bao nhiêu tuổi
trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi
là núi non (ca dao).
4. Xét từ góc độ cú pháp
Các phương tiện cú
pháp như câu, điệp từ, chấm câu, câu nghi vấn, câu cảm thán..cũng gíúp cho lời
văn nghệ thuật có sức truyền cảm nhằm diễn đạt ý tình của nhà văn:
- Người lên ngựa kẻ chia
bào
Rừng phong thu đã nhuộm
màu quan san
- Bạc phơ mái tóc người
cha. (Tố Hữu)
- Trời vẫn xanh một màu
xanh Quảng Trị (Tế Hanh)
- Cỏ bên trời xanh một
sắc Ðạm Tiên (Chế Lan Viên)
- Màu thời gian xanh
xanh,
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không
nồng
Hương thời gian thanh
thanh
(Màu thời gian. Ðoàn Phú Tứ)
Các phương tiện xây dựng
lời văn nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Việc nắm bắt các phương tiện trên
chỉ mới là cơ sở để hiểu lời văn nghệ thuật. Ðiều quan trọng là phải phát hiện
những phương tiện đó được nhà văn vận dụng cụ thể như thế nào để tạo nên lời
văn nghệ thuật.
IV. CÁC THÀNH PHẦN LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
Có thể chia lời văn nghệ
thuật ra thành lời tác giả và lời nhân vật hay lời trực tiếp và lời gián tiếp.
1. Lời tác giả và lời
nhân vật.
Lời tác giả thường
chính là lời trần thuật hoặc miêu tả còn lời nhân vật là lời mà nhân vật
trực tiếp nói lên trong tác phẩm.
Việc phân biệt như trên
thực ra chỉ có tính chất ước lệ, tương đối bởi vì mọi lời văn trong tác phẩm
thực chất đều là lời của tác giả. Mọi lời nói của nhân vật đều do tác giả hư
cấu, sáng tạo nên. Tuy nhiên, sự phân biệt này vẫn có một ý nghĩa nhất định.
Ơí đây, có sự khác biệt
giữa lời nhân vật trong văn học cổ và lời nhân vật trong văn học cận, hiện đại.
Trong văn học cổ, lời nhân vật thường không được cá tính hóa rõ nét, thể hiện
bản chất của nhân vật mà thường do sự gán ghép từ những suy nghĩ riêng của tác
giả. Trong văn học cận, hiện đại, lời nhân vật được tác giả tôn trọng. Tác giả
thường để cho nhân vật nói năng phù hợp với trình độ, suy nghĩ của chính họ.
Nhân vật nói theo giọng điệu riêng của mình chứ không phải theo suy nghĩ chủ
quan của tác giả.
2. Lời trực tiếp và lời
gián tiếp.
Lời trực tiếp chủ yếu là
lời nhân vật và một bộ phận lời của tác giả thể hiện một cách trực tiếp trong
tác phẩm. Lời trực tiếp trong tác phẩm chủ yếu là những câu đối thoại giữa nhân
vật này với nhân vật khác. Có thể kể đến một số lời trực tiếp.
Lời trực tiếp phù hợp là
lời mà nhân vật nghĩ sao, nói vậy. Lời trực tiếp không phù hợp là lời nhân vật
nghĩ một dằng, nói một nẽo, nghĩ ít, nói nhiều hoặc ngược lại. Chẳng
hạn, đoạn Kiều suy nghĩ trước khi khuyên Từ Hải ra hàng và những lời của Kiều
nói với Từ Hải. Ơí đây, cần hiểu lời nói của nhân vật không phải bằng câu
chữ mà cần phải thấy ẩn ý, ý định của tác giả và nhân vật.
Lời gián tiếp là toàn bộ
lời văn của tác giả hay người trần thuật có chức năng trình bày sự vật, hiện
tượng như ngoại hình, môi trường, phong cảnh, sự kiện...vốn không tự nói được,
được nói lên trong tác phẩm.
Theo Bakhtin, lời gián
tiếp có thể chia làm 2 loại: lời gián tiếp một giọng và lời gián tiếp 2 giọng.
Lời gián tiếp một giọng
là lời tái hiện hay bình phẩm các hiện tượng của thế giới theo ý nghĩa khách
quan vốn có của chúng theo ý đồ của tác giả, không liên quan gì đến ý thức, suy
nghĩ của người khác về chúng. trong văn học dân gian và văn học cổ, các tác giả
thường sử dụng hình thức này. Lời gián tiếp hai giọng là lời tái hiện,
bình phẩm các hiện tượng, hướng tới lời và ý thức người khác, tranh
luận, phản bác hay đồng tình với chúng. loại này có thể có các dạng lời nửa
trực tiếp, lời gián tiếp của người kể chuyện và lời gián tiếp phong cách hóa.
Tùy theo từng loại tác
phẩm khác nhau, hai loại lời văn trên có vị trí, vai trò khác nhau. Nếu như
trong tác phẩm tự sự ì, lời gián tiếp giữ vai trò chủ đạo thì trong loại tác
phẩm kịch, lời trực tiếp lại giữ vai trò chủ đạo và hạn chế tối đa lời gián
tiếp. Trong loại tác phẩm trữ tình, sự phân bố 2 thành phần trên phức tạp hơn
nhưng điều quan trọng trong lời văn tác phẩm trữ tình không phải ở 2 thành phần
đó mà chủ yếu được thể hiện ở nhịp thơ, câu thơ, luật thơ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét