CHƯƠNG III
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC
(1945-1975)
I. Đường lối xây dựng, bảo vệ chính quyền và kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1954)
a. Hoàn cảnh Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám
§ Thuận lợi:
- Với thắng lợi của cách
mạng Tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng ta đã trở thành
Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
- Nhân dân ta có truyền
thống yêu nước, truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm.
Truyền thống đó càng được phát huy khi nhân dân ta đã thực sự trở thành người
làm chủ đất nước, thực sự được hưởng thành quả do cách mạng đem lại, nên có
quyết tâm cao độ trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
- Sau chiến tranh thế
giới thứ II, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới, phong trào
giải phóng dân tộc phát triển trở thành một dòng thác cách mạng; phong trào dân
chủ và hoà bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Về cơ bản và lâu dài thì tình hình
ấy có lợi cho cách mạng Việt Nam.
§ Khó khăn:
- Chính quyền Nhà nước
vừa ra đời còn non trẻ chưa được củng cố vững chắc. Lực lượng vũ trang cách
mạng đang trong thời kỳ hình thành, các công cụ bạo lực khác chưa được xây
dựng.
- Nền kinh tế nước ta bị
kiệt quệ sau nhiều năm chiến tranh.Tài chính, kho bạc chỉ còn 1,2 triệu đồng
Đông Dương (một nửa rách nát), ngân hàng Đông Dương vẫn đang nằm trong tay tư
bản Pháp. Bên cạnh đó, bọn Tưởng Giới Thạch mang tiền quan kim và quốc tệ sang
tiêu ở Việt Nam gây rối loạn thị trường.
- Văn hoá: 95% dân số mù
chữ, các tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn nặng nề.
- Chính trị:
+ Ở miền Bắc (từ vĩ
tuyến 16 Đà Nẵng trở ra): Gần 20 vạn quân Tưởng lũ lượt vào miền Bắc. Sau lưng
chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ tiêu chính quyền cách mạng,
đưa bọn tay sai lập chính quyền bù nhìn và thực hiện chính sách cứơp bóc nhân
dân Việt Nam.
+ Ở Miền Nam (từ vĩ
tuyến 16 trở vào): Trên một vạn quân Anh cũng mượn tiếng là vào tước vũ khí của
Nhật, nhưng kỳ thực là chúng mở đường cho thực dân Pháp cướp lại nước ta. Ngày
23/9/1945 dưới sự yểm trở của 2 sư đoàn thiết giáp Anh, Pháp đã nổ súng tấn
công Sài Gòn, chính thức xâm lược nước ta lần thứ 2.
Trên đất nước ta lúc này
còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ lệnh giải giáp nhưng một số quân Nhật đã
thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng với quân Anh, dọn đường cho quân Pháp mở
rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam. Chưa bao giờ, cùng một lúc cách mạng Việt Nam
phải đối phó với nhiều kẻ thù như thời điểm này. Chúng có thể mâu thuẫn với
nhau về lợi ích kinh tế nhưng đều thống nhất với nhau trong âm mưu chống cộng
sản, thủ tiêu chính quyền cách mạng, xoá bỏ thành quả mà cuộc CMT8 vừa giành
được.
b. Chủ trương của Đảng ta
- Tình hình khó khăn
trên đặt ra trước mắt Đảng và nhân dân ta những nhiệm vụ nặng nề và cấp bách.
Chúng ta vừa phải xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở các cấp, vừa phải
khôi phục kinh tế, giải quyết nạn đói, nạn thất học, vừa phải đấu tranh với các
thế lực thù địch để bảo vệ chính quyền cách mạng và khẳng định vị thế của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Ngày 25/11/1945 Ban
chấp hành trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" vạch ra
con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
+ Về chỉ đạo chiến lược:
Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải
phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết",
nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
+ Về xác định kẻ thù:
Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Ban chấp hành trung ương
nêu rõ: Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy phải lập mặt trận dân tộc thống nhất chống
thực dân Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp
nhân dân, thống nhất mặt trận Việt - Minh - Lào chống Pháp xâm lược; kiên quyết
giành độc lập tự do - hạnh phúc dân tộc vv.......
+ Về phương hướng nhiệm
vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là:
1. Củng cố chính quyền
cách mạng.
2. Chống thực dân Pháp
xâm lược.
3. Bài trừ nội phản.
4. Cải thiện đời sống
nhân dân.
+ Những biện pháp cụ thể
để thực hiện những nhiệm vụ trên: Xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ
chính thức, lập hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân; động viên lực lượng
toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài;
kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân
thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về chính trị,
nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.
Tóm lại: Những chủ
trương trên đây của Ban chấp hành trung ương Đảng được nêu trong bản chỉ thị
"Kháng chiến kiến quốc" ra ngày 25/11/1945 đã giải quyết kịp thời
những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong tình
thế mới vô cùng phức tạp và khó khăn của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới
khai sinh.
Kháng chiến và kiến quốc
là tư tưởng chiến lược của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức
mạnh đoàn kết dân tộc, quyết tâm đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp, bảo
vệ và xây dựng chế độ mới.
c. Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
- Kết quả:
+ Về chính trị - xã hội:
Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố
cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông
qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân được quốc hội thông qua và ban
hành. Bộ máy chính quyền từ Trung ương đến làng, xã và các cơ quan tư pháp, toà
án, các công cụ chuyên chính như vệ quốc đoàn, Công an nhân dân được thiết lập
và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc
dân Việt Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được xây
dựng và mở rộng. Đảng dân chủ Việt Nam, Đảng xã hội Việt Nam được thành lập.
+ Về kinh tế, văn hoá:
Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xoá bỏ các thứ thuế vô lý
của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh
vực sản xuất được hồi phục. Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, năm
1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. Tháng 11/1946, giấy bạc
"Cụ Hồ" được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức khai
giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá mới đã bước đầu
xoá bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình
dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946 cả nước đã có thêm 2,5 triệu
người biết đọc, biết viết.
+ Về bảo vệ chính quyền
cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm
vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ
đứng lên kháng chiến và phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam bộ, ngăn
không cho quân Pháp đánh ra Trung Bộ. ở miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu
thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lược nhân
nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập
trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp - Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh
(28-2-1946), thoả thuận mua bán quyền lợi với nhau, cho Pháp kéo quân ra miền
Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hoà hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc
quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt,
ở Phôngtennơbờlô (Phongtênnbleau, Pháp). Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều kiện cho
quân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
- Ý nghĩa của những thành
quả đấu tranh nói trên là đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững
chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một
chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ cộng hoà; chuẩn bị được những điều kiện cần
thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.
- Nguyên nhân thắng lợi: Có
được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước
ta sau Cách mạng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương kháng chiến, kiến quốc
đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch....
- Bài học kinh nghiệm trong
hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc giai đoạn 1945
- 1946 là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù,
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch
cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận
dụng khả năng hoà hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân,
đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả
nước khi kẻ địch bội ước.
2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân (1946 - 1954)
a. Hoàn cảnh lịch sử
- Tháng 11/1946, quân
Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ
bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở phố Yên
Ninh - Hàng Bún (Hà Nội). Đồng thời Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ ta, đòi
phải tước hết vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô.
- Trước tình hình đó, từ
ngày 13 đến ngày 22/12/1946 Ban thường vụ trung ương Đảng ta đã họp tại Vạn
Phúc, Hà Đông dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương
đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có
kết quả. Hội nghị cho rằng khả năng hoà hoãn không còn. Hoà hoãn nữa sẽ dẫn đến
hoạ mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. Do đó, hội nghị đã quyết định
hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công
trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh
lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946, tất cả các chiến
trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
§ Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược là: cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo
vệ nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt,
nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
§ Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta
bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại
có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một số nơi ở
Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến
- Ngay sau cách mạng
tháng Tám, trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" Đảng ta đã khẳng
định kẻ thù chính của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược. Trong quá trình chỉ
đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết
hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp
định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
- Ngày 19/10/1946 thường
vụ trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư
Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm thì muộn, Pháp sẽ
đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp". Hội nghị đã đề ra những
chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn
sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ ra
ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược,
toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi
cuối cùng.
- Đường lối toàn quốc
kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng
chiến" của trung ương Đảng (22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất
định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh (9/1947).
§ Nội dung đường lối:
+ Mục đích kháng chiến:
là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực dân Pháp xâm lược, hoàn
thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
+ Tính chất kháng chiến:
Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Vì
vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
+ Chính sách kháng
chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn
kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ
toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến ...phải tự cấp, tự túc về mọi
mặt".
+ Nhiệm vụ kháng chiến:
1. Đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
2. Trong quá trình kháng
chiến không thể không thực hiện những cải cách dân chủ, tiến hành từng bước
chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối liên minh
công nông, phân hoá cô lập kẻ thù.
3. Không chỉ đấu tranh
cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới.
+ Phương châm tiến hành
kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.
§ Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc,
lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ quân làm nòng cốt… "Bất kỳ đàn ông, đàn
bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là
người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là
một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
§ Kháng chiến toàn diện:
Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong
đó:
Kháng chiến về chính
trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà
bình.
Kháng chiến vê quân sự:
Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt
địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động
chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn
thực lực, kháng chiến lâu dài.... vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào
tạo thêm cán bộ".
Kháng chiến về kinh tế:
Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây dựng kinh tế tự cung
tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và
công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến vừa xây dựng đất
nước”.
Kháng chiến về văn hoá:
Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá dân chủ mới theo ba
nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Kháng chiến về ngoại
giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên hiệp với dân
tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công
nhận Việt Nam độc lập.
§ Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh
nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian để củng cố, xây dựng lực lượng,
nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn
địch, đánh thắng địch.
§ Kháng chiến dựa sức mình là chính, trước hết phải độc lập về đường lối chính trị, chủ động xây dựng
và phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi trọng viện trợ quốc
tế.
§ Triển vọng kháng chiến:
Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến
của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế
thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.
Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng
chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Thực hiện đường lối
kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng ta chỉ đạo cuộc chiến đấu
giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại cuộc hành
quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách
chống phá thủ đoạn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh
người Việt" của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới cuối năm
1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được
quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.
- Đầu năm 1951, trước
tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã
được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng
chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng.
Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực
tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đã đặt ra yêu cầu bổ
sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
- Tháng 2/1951, Đảng
cộng sản Đông Dương đã họp đại hội đại biểu lần thứ II tại Chiêm Hoá - Tuyên
Quang. Đại hội đã nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung
ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và ra Nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông
Dương thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của ba dân tộc đi
đến thắng lợi. ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động
Việt Nam. Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân,
tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội của
Đảng lao động Việt Nam đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Đường lối đó được phản ánh trong chính cương của Đảng lao động Việt Nam.
§ Nội dung của Chính cương
Đảng lao động Việt Nam.
+ Tính chất xã hội Việt Nam có ba tính chất: Dân chủ nhân dân một phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính chất
đó đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa
tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải
quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ.
+ Đối tượng cách mạng Việt Nam có hai đối tượng:
• Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là
đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
•
Đối tượng phụ hiện nay
là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động.
+ Nhiệm vụ cách mạng:
•
Đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
•
Xoá bỏ những di tích
phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng.
•
Phát triển chế độ dân
chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng
khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc.
+ Động lực của cách mạng gồm:
Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những thân sĩ
(địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại
thành nhân dân, mà nền tảng là công nông, lao động trí óc. Giai cấp công nhân
là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
+ Sắp xếp loại hình cách mạng:
Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin (cách mạng giải phóng dân
tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản) gọi cách mạng Việt Nam là
cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng chí Trường Chinh giải thích:
Gọi là cách mạng dân tộc
vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
Gọi là cách mạng dân chủ
vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho nông dân.
Gọi là cách mạng nhân
dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.
Đây là sự bổ sung và
phát triển lý luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết Mác- Lênin mà công lao
to lớn thuộc về đồng chí Trường Chinh.
+ Phương hướng tiến lên
của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và đại thể
trải qua ba giai đoạn:
•
Giai đoạn thứ nhất,
nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
•
Giai đoạn thứ hai, nhiệm
vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện
triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân
dân.
•
Giai đoạn thứ ba, nhiệm
vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa
xã hội
Ba giai đoạn ấy không
tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau.
+ Giai cấp lãnh đạo và
mục tiêu của Đảng: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng
lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt
Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.
+ Chính sách của Đảng:
có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho
chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.
+ Quan hệ quốc tế: Việt
Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã
hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết
Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên - Lào.
- Đường lối, chính sách
của Đảng ta đã được bổ sung, phát triển qua các hội nghị trung ương tiếp theo.
+ Tại HN trung ương lần
thứ nhất (3 - 1951), Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa
công tác chỉ đạo chiến tranh, củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ
đội địa phương và dân quân du kích; gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính,
thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của
tư nhân để phát triển công thương nghiệp, tích cực tham gia phong trào bảo vệ
hoà bình thế giới, củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức.
+ Nghị quyết HNTƯ lần
thứ hai (họp từ 27/9/1951 đến ngày 5/10/1951), đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh
cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn là:
• Ra sức tiêu diệt sinh
lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự.
• Ra sức phá âm mưu thâm
độc của địch là lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt.
• Đẩy mạnh kháng chiến ở
vùng tạm bị chiếm, củng cố và phát triển sức kháng chiến đoàn kết.
+ Tại HNTƯ lần thứ tư
(tháng 1 - 1953) vấn đề cách mạng ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm
điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách
ruộng đất. Hội nghị cho rằng, muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ
nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và
chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.
+ HNTƯ lần thứ năm (11 -
1953), Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải
cách ruộng đất trong kháng chiến.
3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh
nghiệm
a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
a1. Kết quả của việc thực hiện đường lối
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức,
tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp
được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập.
Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới. Chính sách ruộng đất
được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Về quân sự:
Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ binh, một đại đoàn
công binh - pháo binh. Thắng lợi các chiến dịch Trung Du. Đường 18, Hà Nam
Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào...đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch,
giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam
và cho cách mạng Lào.... Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào
lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ
XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng
lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại
giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày
27-12-1953, Ban Bí thư ra Thông tư nêu rõ: "lập trường của nhân dân Việt
Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính
phủ ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hoà bình vấn đề
Việt Nam". Ngày 8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông
Dương chính thức khai mạc ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ). Ngày 20-7-1954, các văn bản của
Hiệp nghị Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được
ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân dân ta kết thúc
thắng lợi.
a2. Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề
ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ
giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài
chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương;
giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự
hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế.
Đối với quốc tế, thắng
lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở rộng
địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng
với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ
trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch
sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói:
"Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một
nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội
chủ nghĩa trên thế giới".
b. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
b1. Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên
nhân, trong đó nổi bật là:
- Có sự lãnh đạo vững
vàng của Đảng với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy động được sức mạnh toàn
dân đánh giặc; có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi - Mặt trận Liên Việt, được xây dựng trên nền tảng khối
liên minh công nông và trí thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang
gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng vững mạnh, chiến đấu
dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến
trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ
nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm
công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh đoàn
kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cùng chống một
kẻ thù chung; đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô,
các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả
nhân dân tiến bộ Pháp.
b2. Bài học kinh nghiệm
Trải qua quá trình lãnh
đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng ta đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm quan trọng.
Thứ nhất,
đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.
Thứ hai,
kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến
và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, trong
đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ
chính quyền cách mạng.
Thứ ba, thực hiện phương
châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng
vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng
chiến.
Thứ tư,
quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, đồng thời tích
cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ
thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, đưa
kháng chiến đến thắng lợi.
Thứ năm,
tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo
của Đảng trong chiến tranh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét