II. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất tổ quốc
(1954 - 1975)
1. Giai đoạn 1954 - 1964
a. Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7/1954
Sau Hiệp định Giơnevơ,
cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn,
phức tạp.
- Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân
sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là của Liên Xô; phong trào giải phóng dân tộc
tiếp tục phát triển ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ La Tinh, phong trào hoà
bình dân chủ lên cao ở các nước tư bản; miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, làm
căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín
năm kháng chiến; có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí
Nam.
- Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá
chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng; thế giới bước vào thời
kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa
Liên Xô và Trung Quốc; đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo
nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở
thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Đảng lãnh đạo đồng thời
hai chiến lược cách mạng ở hai miền khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách
mạng Việt Nam sau tháng 7/1954. Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi khó khăn nêu
trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối chiến lược chung cho
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối
b1. Quá trình hình thành và nội dung đường lối
- Tháng 9/1954 bộ chính
trị ra nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng.
Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng
Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình;
nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán
chuyển đến tập trung.
- Tại HNTƯ lần thứ bảy
(3/1955) và lần thứ tám (8/1955) trung ương Đảng nhận định: muốn chống đế quốc
Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập và dân
chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy
mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
- Tháng 12/1957, tại
HNTƯ lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng được
xác định: "Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn đảng, toàn dân ta hiện
nay là: củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục
đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng
phương pháp hoà bình.
- Tháng 1/1959 HNTƯ lần
thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban chấp
hành trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam.
§ Nội dung HNTƯ 15.
+ Hội nghị xác định tính
chất xã hội miền Nam sau 1954 là xã hội thuộc địa kiểu mới và nửa phong kiến.
+ Mâu thuẫn cơ bản của
xã hội miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với đế quốc Mỹ xâm
lược và tay sai của chúng. Mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam mà chủ yếu là nông
dân với địa chủ phong kiến. Trong hai mâu thuẫn trên, thì mâu thuẫn chủ yếu ở
miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với đế quốc mỹ xâm lược cùng
tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm - tay sai của đế quốc Mỹ, đại diện cho bọn địa
chủ phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất.
+ Nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam:
•
Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc.
•
Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam.
Hai nhiệm vụ chiến lược
đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau nhằm phương hướng
chung là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận
lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.
+ Nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ
xâm lược, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính
quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các
quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà
bình ở Đông Nam á và trên thế giới.
+ Con đường phát triển
cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của
quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống
trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền thống trị của đế quốc và
phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân.
+ Phương pháp cách mạng:
Cần có sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù phân hoá cao độ đế
quốc Mỹ và tay sai của chúng. Sử dụng, kết hợp những hình thức đấu tranh hợp
pháp, nửa hợp pháp, phối hợp chặt chẽ phong trào ở đô thị với phong trào nông
thôn và vùng căn cứ. Cần kiên quyết giữ vững đường lối hoà bình thống nhất nước
nhà. Đồng thời hội nghị dự báo đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất cho
nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả
năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ và thắng lợi nhất định
thuộc về ta.
+ Về mặt trận: Hội nghị
chủ trương cần có mặt trận dân tộc thống nhất riêng ở miền Nam có tính chất,
nhiệm vụ và thành phần thích hợp nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chống đế
quốc và tay sai.
+ Về vai trò của Đảng bộ
miền Nam: Hội nghị chỉ rõ sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới
chế độ độc tài phát xít là một yếu tố quyết định thắng lợi phong trào cách mạng
miền Nam. Phải củng cố Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đề cao
công tác bí mật, triệt để khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để che
dấu lực lượng đề phòng sự xâm nhập phá hoại của bọn gián điệp và những phần tử
đầu hàng, phản bội chui vào phá hoại Đảng.
Nghị quyết hội Nghị lần
thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền
Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta
trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Quá trình đề ra và chỉ
đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành
đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội
lần thứ III của Đảng.
- Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III (9-1960) tại Hà Nội đã xác định:
+ Nhiệm vụ chung:
"Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy
mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc
lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới".
+ Nhiệm vụ chiến lược:
Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:
•
Một là, tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
•
Hai là, giải phóng miền
Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Mục tiêu chiến lược:
"Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai
chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền
trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết
mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của
chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc".
+ Mối quan hệ của cách
mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên "Hai nhiệm vụ
chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn
nhau".
+ Vị trí, tác dụng:
•
Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả
nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả nước.
•
Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện
hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước.
+ Con đường thống nhất
đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì
con đường hoà bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực
hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường
tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung
của thế giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng
đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây
ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết
đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".
+ Triển vọng của cách
mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một quá
trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc
về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa
xã hội.
b2. Ý nghĩa của đường lối
Đường lối tiến hành đồng
thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ III của
Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
- Đường lối đó thể hiện
tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả
nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được
sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng
thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên
Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đặt trong bối cảnh
Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể
hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết
những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù
hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.
- Đường lối chiến lược
chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo
quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của
đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
2. Giai đoạn 1965 - 1975
a. Bối cảnh lịch sử
Từ đầu năm 1965, để cứu
vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược "Chiến
tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ ào ạt đưa quân Mỹ và quân các nước chư hầu vào
miền Nam, tiến hành cuộc "Chiến tranh cục bộ" với quy mô lớn; đồng
thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền
Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
- Thuận lợi: khi bước
vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng thế giới đang ở thế tiến
công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về
kinh tế, văn hoá. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng
miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
Ở miền Nam, vượt qua
những khó khăn trong những năm 1961 - 1962, từ năm 1963, cuộc đấu tranh của
quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba công cụ của "Chiến tranh đặc
biệt" (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân dân ta
tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến lược "Chiến tranh đặc
biệt" của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá
sản.
- Khó khăn: Sự bất đồng
giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không có lợi cho cách mạng
Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc "Chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân
đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm
cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra yêu
cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường lối kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc.
b. Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối
b1. Quá trình hình thành và nội dung đường lối
Khi đế quốc Mỹ tiến hành
chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, các hội nghị của Bộ
Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vững và phát triển
thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc "đồng khởi" năm 1960, đưa
cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách
mạng trên quy mô toàn miền. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa của quần
chúng với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đồng
thời phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên một bước mới, ngang tầm với đấu
tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị
song song, đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh
vận. Vận dụng phương châm đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng chiến lược:
rừng núi, đồng bằng, thành thị.
- Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ chín (tháng 11 - 1963), ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm
quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng về
cách mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh
vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh
yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác
định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng
thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh
phá của địch.
- Trước hành động gây
"Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại ra
miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3 - 1965) và lần
thứ 12 (tháng 12 - 1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.
+ Về nhận định tình hình
và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng cuộc "Chiến tranh cục
bộ" mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược
thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho
nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Từ sự phân tích và nhận định đó,
trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong toàn
quốc, coi chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí
Bắc.
+ Quyết tâm và mục tiêu
chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược", "kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà
bình thống nhất nước nhà".
+ Phương châm chỉ đạo
chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là
chính, càng đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của
cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi
quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
+ Tư tưởng chỉ đạo và
phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên
quyết tiến công và liên tục tiến công. "Tiếp tục kiên trì phương châm đấu
tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp
công", đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu
tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan
trọng.
+Tư tưởng chỉ đạo đối
với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc
vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ
vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất
để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn
bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng
"Chiến tranh cục bộ" ra cả nước.
+ Nhiệm vụ và mối quan
hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân
cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền
Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững
chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt
nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ
trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu chung của
nhân dân cả nước lúc này là "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
b2.Ý nghĩa của đường lối
Đường lối kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội nghị Trung ương lần thứ 11
và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng:
- Thể hiện quyết tâm
đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ,
sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn
ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
- Thể hiện tư tưởng nắm
vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến
hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả
nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối
cảnh quốc tế.
- Đó là đường lối chiến
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được
phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược.
3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh
nghiệm
a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
a1. Kết quả
- Ở miền Bắc, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, sau 21 năm nỗ lực phấn
đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu đáng tự
hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu được hình thành.
Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thất nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về
người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hoá, xã hội,
y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất
nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường.
Quân dân miền Bắc đã
đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, điển hình là trận
"Điện Biên Phủ trên không" trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng từ 18 đến
30/12/1972 (bắn rơi 81 máy bay Mỹ, có 34 B52, bắt 43 giặc lái Mỹ).
Miền Bắc không chỉ chia
lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách
mạng cả nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam.
- Ở miền Nam, với sự lãnh
đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền
bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn 1954 - 1960 đã đánh bại "Chiến tranh đơn
phương" của Mĩ - Ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công, giai đoạn 1961 - 1965 đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh
bại chiến lược "Chiến tranh đặt biệt" của Mỹ, giai đoạn 1965 - 1968
đã đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ và chư hầu, buộc
Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại
Pari; giai đoạn 1969 - 1975 đã đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến
tranh" của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải
tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
a2. Ý nghĩa lịch sử
- Ý nghĩa lịch sử đối
với nước ta là đã kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm
lược, 30 năm chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc , chấm dứt hơn một thế kỷ
chống chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới, giải phóng
miền Nam, đưa lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước; hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho
dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hoà bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ
chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần,
thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và những
kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau; góp phần
quan trọng vào việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam trên trường
quốc tế.
- Ý nghĩa đối với cách
mạng thế giới là đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào
chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau cuộc Chiến tranh thế giới lần
thứ hai, bảo vệ vững chắc tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội; làm
phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc mỹ, gây tổn thất to lớn
và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài; góp phần làm suy
yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực
Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ
vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ tự do và
hoà bình phát triển của nhân dân thế giới.
Đánh giá thắng lợi lịch
sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) khẳng định: "Năm tháng sẽ
trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói
lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại
của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại
sâu sắc".
b. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
b1.Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi của sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng
nhất là:
- Sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống
còn của cả dân tộc Việt Nam, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự
độc lập, tự chủ, sáng tạo.
- Cuộc chiến đấu đầy
gian khổ hy sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ,
chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với
quân thù, xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng Tổ quốc".
- Công cuộc xây dựng và
bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc,
một hậu phương vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu
phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.
- Tình đoàn kết chiến
đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, sự giúp đỡ to
lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự ủng hộ nhiệt tình của chính phủ và
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
b2. Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm có giá
trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Một là,
đề ra và thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Đường lối đó thể
hiện ý chí và nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam,
của cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với các trào lưu của cách mạng thế giới, nên đã
động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh của
tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức
mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu và chiến thắng giặc
Mỹ xâm lược.
Hai là,
tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tư tưởng chiến lược tiến công,
quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Tư tưởng đó là một nhân tố hết
sức quan trọng để hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương, biện pháp đánh Mỹ,
nhân tố đưa cuộc chiến đấu của dân tộc ta đi tới thắng lợi.
Ba là,
thực hiện chiến tranh nhân dân, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng
tạo. Để chống lại kẻ địch xâm lược hùng mạnh, phải thực hiện chiến tranh nhân
dân. Đồng thời phải chú trọng tổng kết thực tiễn để tìm ra phương pháp đấu
tranh, phương pháp chiến đấu đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo.
Bốn là,
trên cơ sở đường lối, chủ trương chiến lược chung đúng đắn phải có công tác tổ
chức thực hiện giỏi, năng động, sáng tạo của các cấp bộ đảng trong quân đội,
của các ngành, các địa phương, thực hiện phương châm giành thắng lợi từng bước
để đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Năm là,
phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở
cả hậu phương và tiền tuyến; phải thực hiện liên minh ba nước Đông Dương và
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ ngày càng to lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa, của nhân dân và chính phủ các nước yêu chuộng hoà bình và công lý trên
thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét