Đề bài:
Vận dụng những kiến thức cơ bản để nêu lên thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam ? Từ đó, đề ra ý kiến của bản thân về con đường xây dựng CNXH trong điều kiện thực tế của nước ta?
Bài làm:
1. Tính tất yếu trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, bỏ qua giai đoạn TBCN ở Việt Nam .
1.1. Thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội chuyển sang một giai đoạn mới – xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN). Về mặt kinh tế, đây là thời kỳ bao gồm những mảng, những phần, những bộ phận của chủ nghĩa tư bản (CNTB) và CNXH xen kẽ nhau, tác động nhau, lồng vào nhau. Nghĩa là thời kỳ tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu xar5n xuất. Do đó, tồn tại nhiều thành phần kinh tế, kể cả thành phần kinh tế TBCN và XHCN, thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ. Cùng tồn tại, vừa thống nhất với nhau lại vừa cạnh tranh gay gắt với nhau.
Thời kỳ quá độ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành lại chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong cơ bản cơ sở vật chất của XHCN, cả về mặt lự lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến truc thượng tầng, cả tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Trong thời kỳ quá độ này chia làm nhiều mức độ nhỏ, bao nhiêu tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. Nhưng các nước lạc hậu thì thời ký đi lên quá độ đi lên XHCN càng kéo dài và càng chia làm nhiều bước quá độ nhỏ (hết sức giằn co và phức tạp).
1.2. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ đi lên CNXH
Là một yếu tố khách quan với mọi nước đi lên CNXH, đây là do đặc điểm của sự ra đời phương thức vô sản cách mạng và do đặc điểm của cuộc cách mạng vô sản quyết định. (cuộc CM vô sản khác với các cuộc CM khác là sau khi giành được Cm chỉ là bước đầu, chủ yếu là tham gia vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước)
Quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển biện chững của lịch sử. Lênin chỉ rõ: “tất cả các dân tộc sẽ đi lên CNXH, đó là điều không thể tránh khỏi. sự quá độ đó cũng phù hợp với với xu hướng của thời đại ngày nay, thời đại mà nói chung chủ yếu là sự quá độ từ TBCN lên XHCN”.
Nước ta quá độ đi lên CNXH kinh qua giai đoạn TBCN là một sự lựa chọn có tính lịch sử phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và nguyện vọng của toàn thể nhân dân.
- Lịch sử đã chứng minh một cách hùng hồn rằng từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến năm 1930 cá phong trào yêu nước của nhân dân ta theo hệ ý thức Phong kiến, tiểu tư sản và tư sản đều thất bại. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo nhân dân ta đi từ thẳng lợi này đến thắng lợi khác, từ thắng lợi nhỏ cho đến thắng lợi hoàn toàn. Sự khảo nghiệm đó của lịch sử dân tộc đã khẳng định câu nói của Hồ Chí Minh, đó là: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”
Từ năm 1930, ĐCSVN ra đời đã dương cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc và CNXH. Dưới ngọn cờ ấy, Đảng đã đoàn kết được cả dân tộc, phát huy được truyền thống bất khuất của dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta suốt nửa thế kỉ đấu tranh để đi đế thắng lợi cuối cùng.
- CM nước ta do ĐCSVN lãnh đạo, Đẳng có cơ sở XH vững chắc là nhân dân, nguồn nhân tố quyết định con đường quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
- Các thế lực phản động và tay sai cho bọn đế quốc, thực dân ở nước ta vừa non kém về tổ chức lại không có tổ chức trong nhân dân, do đó nhân dân ta quyết tâm không đi theo con đường phản dân hại nước của chúng.
Như vậy, điều kiện lịch sử và những tiền đề nói trên khẳng định quá độ đi lên CNXH ở nước ta là một tất yếu lịch sử, là sự lựa chọn sáng suốt nhất và cũng là duy nhất. Tuy nhiên, muốn CNXH trở thành hiện thực chúng ta cần phải trải qua nhiều gian nan thử thách. Hiện nay, CNXH hiện thực thế giới đang bước vào giai đoạn khủng hoảng nhưng Đảng và nhân dân ta vẫn bình tĩnh, cân nhắc và khẳng định con đường đi lên CNXH là duy nhất.
1.3. Các loại hình quá độ đi lên CNXH
Theo CN Mác – Lênin, thời kỳ quá độ là một tất yếu, khách quan đối với các nước muốn đi lên CNXH. Tuy nhiên, do đặ điểm riêng của từng nước là khác nhau nên thời kỳ quá độ cũng khác nhau, và trải qua những tuần tự với sự phát triển của lịch sử.
Đối với các nước có nền kinh tế lạc hậu như Việt Nam thì thời kỳ quá độ lên thẳng CNXH không cần qua giai đoạn phát triển TBCN, đây là loại hình phát triển nhay vọt, không theo quy luật chung của lịch sử nhưng phù hợp nếu đi lên CNXH.
Xong với con đường này cần những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định:
- Điều kiện khách quan: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến. Họ giúp đỡ vê vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí,…
- Điều kiện chủ quan: + Giai cấp vô sản đó phải giành được chính quyền
+ Phải có đảng lãnh Mác xít, Lênin – nít lãnh đạo
+ Phải có liên minh công nông vững chắc.
1.4. Quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam
1.4.1 Nguyên nhân
ở nước ta, việc lựa chọn con đường quá độ thẳng lên CNXH kinh qua chế độ TBCN là con đường hợp lí, đúng đắn, do những nguyên nhân sau:
- Sự lựa chọn này phù hợp với nguyện vọng của toàn thể cộng đồng và đông đảo quần chúng nhân dân lao động nước ta, phù hợp với nhu cầu tiến thẳng lên CNXH. Nhân dân ta tin tưởng chỉ có CNXH mới là một chế độ công bằng và tiến bộ.
- Nhân dân ta tiến hành hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược (Pháp và Mỹ) rất tốn kém. Và thực chất hai cuộc kháng chiến ấy là hai cuộc kháng chiến chống lại chế độ TBCN. Khi hòa bình được lập lại chúng ta không thể nào có thể lựa chọn một con đường mà chúng ta đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt mới có thê thoát ra được “gông cùm” của nó.
- Trên thế giới có nhiều nước phát triển theo con đường TBCN nhưng kết quả thì chỉ có rất ít nước thực sự phát triển. Cũng như theo nhận xét của Kissingter (một nhà Tb tài chính) thì: “Châu Phi đói, Châu Á nghèo, và Châu Mĩ La tinh nợ chồng chất”.
2. Quan điểm HCM về tính tất yếu của CNXH
Hồ Chí Minh đã khẳng định “CNXH là quy luật khách quan, phổ biến trong quá trình phát triển của xã hội loài người”. Bời vì:
- Sự ra đời CNXH là do nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để. Được nhìn nhận dưới 3 góc độ: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng từng cá nhân con người để hình thành liên hiệp các nhân cách phát triển tự do.
- Sự ra đời CNXH là một tất yếu đạo đức: theo quy luật cái chân cái thiện cái mỹ, tất yếu phải chiến thắng cái giả dối, cái ác, cái xấu, cái thấp hèn. HCM đồng nhất CNXH với một XH đạo đức, văn minh. Chiều sâu CNXH thực chất là vấn đề đạo đức XH.
- Sự ra đời CNXH là một tất yếu văn hóa. CNXH là một thước đo trình độ phát triển cao của nền văn minh. Văn hoá ở đây được hiểu là trình độ người của các quan hệ XH, là hệ thống các quá trình bền vững XH. Sự ra đời CNXH theo HCM là tổng hợp nhiều yếu tố, HCM đi đến nhận định các dân tộc thế giới chắc chắn cuối cùng sẽ đi lên CNXH. Đó là quy luật mà không ai có thể cưỡng lại được, không lực lượng nào có thể ngăn được mặt trời mọc, ngăn được loài người tiến lên CNXH.
2.1. Quan điểm của HCM về tính lâu dài phức tạp của thời kỳ quá độ lên CNXH
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin , thì có hai con đường đi lên CNXH. Con đường thứ nhất là con đường quá độ trực tiếp đi lên CNXH từ cá nước TBCN phát triển có trình độ cao. Con đường thứ hai là gián tiếp lên CNXH ở những nước CNTB phát triển thấp hoặc các nước tiền TBCN.
Trên cơ sở vận dụng về cách mạng không ngừng, về thời kì quá độ đi lên CNXH của chủ nghĩa Mác – Lênin và xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên CNXH. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ giá tiếp, cụ thể - quá độ từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH.
Hình thức quá độ này rất lâu dài
- Năm 1943 trả lời Tiêu Văn (tướng của Tưởng Giới Thạch), ở VN sau 50 năm nữa thì có CNXH hay không? Trả lời chưa có thể có CNXH được.
- Năm 1946 một phóng viên Pháp có hỏi ở VN khi nào có CNCS? Hồ Chí Minh nói: Muốn có CNCS phải có ba điều kiện, phải có đất công nghệ, đất nông nghệ và phải có con người phát triển toàn diện. Ở nước tôi cả 3 điều kiện này chưa có, khi nào có đủ thì có CNXH.
- Năm 1958 cử tri Hà Nội hỏi: Thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta kéo dài bao lâu? Bác trả lời: Căn cứ vào thực tiễn xây dựng CNXH ở các nước thì thời kỳ quá độ của nước ta kéo dài từ 3 đến 4 kế hoạch dài hạn (mỗi kế hoạch từ 8 đến 10 năm)
2.2 Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH
HCM luôn nhấn mạnh đặc điểm lớn nhất bao trùm và chi phối các đặc điểm còn lại của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN là, chúng ta đi lên CNXH từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lac hậu không qua Chủ nghĩa Tư bản, mâu thuẫn cơ bản là giữa nhu cầu phát triển cao theo hướng tiến bộ với thực trạng kinh tế xã hội quá thấp kém.
2.3. Nhiệm vụ và nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH
2.3.1 Nhiệm vụ
- Xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật, các tiền đề kinh tế chính trị văn hóa, xã hội cho CNXH
- Cải tạo XH thuộc địa nửa phong kiến kết hợp với xây dựng chế độ mới, biến nước ta thành nước công nghiệp hiện đại có văn hóa có khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhân dân có cuộc sống no ấm hạnh phúc.
2.3.2 Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH
- Về chính trị: Xác lập quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp thông qua các đoàn thể chính trị XH.
- Về kinh tế: Mục đích phát triển kinh tế là nâng cao đời sống nhân dân, phát triển lực lượng sản xuất công nghiệp hóa nước nhà, phát triển khoa học kỹ thuật, công nghiệp hóa phải bắt đầu từ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Phát triển toàn diện 3 loại cơ cấu kinh tế hợp lý:
+ Cơ cấu kinh tế công nông nghiệp, là 2 chân của nền kinh tế, hai chân khỏe đi nhanh.
+ Cơ cấu vùng lãnh thổ, Bác nhấn mạnh phát triển kinh tế miền núi.
+ Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, Bác chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần: quốc doanh, tập thể, tư nhân, cá thể, công tư hợp doanh. Về chế độ quản lý khoán, phải hoạch toán, phải kinh doanh, kết hợp 3 lợi ích.
- Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa có nội dung XHCN và tính chất dân tộc
Xây dựng con người XHCN có đầy đủ đức, trí, thể, mỹ, đủ văn hóa, KHKT, chuyên môn, nghiệp vụ đủ sức khỏe để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
2.4. Về bước đi, phương thức, biện pháp xây dựng CNXH
2.4.1 Bước đi
Người viết: Chúng ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay trắng, khó khăn còn nhiều và lâu dài, phải làm dần dần không thể vội vàng làm nhanh một sớm một chiều. Ví dụ trong nông nghiệp lúc đầu là tiến hành giảm tô sao đó cải cách ruộng đất, sau đó tới vần công đổi công, xây dựng hợp tác xã,…. cần ưu tiên phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ để phát triển công nghiêp nặng.
2.4.2 Phương thức, biện pháp xây dựng CNXH
Phải kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính.
Kết hợp xây dựng CNXH với bảo vệ thành quả cách mạng, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược đồng thời ở hai miền. Nhiệm vụ xây dựng CNXH là nặng nề, khó khăn, phức tạp, lâu dài, vì thế phải đem sức dân, tài dân làm lợi cho dân.
“Chỉ tiêu một - biện pháp mười - quyết tâm phải hai mươi.”
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM
Quá trình xây dựng CNXH ở nước ta đã trải qua một thời kì lâu dài và phức tạp. Với sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Hồ Chí Minh, quá trình này đã diễn ra phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể và đạt được nhiều thành tích nổi bật. Cụ thể, được chia ra làm các giai đoạn lớn và thời kì nhỏ như sau:
1. Giai đoạn trước “Đổi mới” (1954 – 1986)
1.1 Tình hình và nhiệm vụ cách mạng nước ta sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương
1.1.1 Tình hình
Với Hiệp định Giơ ne vơ , cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông dương có Mỹ giúp đã chấm dứt.
a. Miền Bắc :
- Ngày 10/10/1954, quân ta tiếp quản Hà Nội.
- Ngày 1/1/1955, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch hỒ Chí Minh ra mắt nhân dân thủ đô.
- Ngày 16/ 5/1955, Pháp rời khỏi Hải Phòng, miền Bắc hoàn toàn giải phóng.
b. Miền Nam :
- Giữa tháng 5/1956, Pháp rút khỏi miền Nam khi chưa thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ..
- Mỹ thay Pháp, đưa tay sai Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền ở miền Nam, âm mưu chia cắt VN, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự ở Đông Dương và Đông Nam Á.
- Với âm mưu của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm , nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền
1.1.2 Nhiệm vụ:
- Do âm mưu của Mỹ - Diệm, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của cả nước chưa hoàn thành.
- Miền Bắc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, tiến lên CNXH,
- Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
1.2 Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất (1954 – 1960)
1.2.1. Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 – 1957)
a. Hoàn thành cải cách ruộng đất :
- Do thực tế ở miền bắc , yêu cầu của nông dân , củng cố khối liên minh công nông , mở rộng mặt trận thống nhất .
- Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương ra nghị quyết :”Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất “
- Trong hơn 2 năm (1954 – 1956), qua 5 đợt cải cách ruộng đất ( kể cả đợt 1 tiến hành trong kháng chiến ), miền Bắc đã tịch thu, trưng thu, trưng mua khoảng 81 vạn hécta ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 1,8 triệu nông cụ chia cho 2 triệu hộ nông dân lao động. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực.
- Hạn chế :ta phạm một số sai lầm như đấu tố tràn lan cả những địa chủ kháng chiến có công với cách mạng.. Quy nhầm một số nông dân, cán bộ , đảng viên thành địa chủ. Đảng, Chính phủ phát hiện và kịp thời sửa chữa trong năm 1957 nên hậu quả sai lầm được hạn chế và ý nghĩa thắng lợi của cải cách ruộng đất vẫn to lớn, khối công nông liên minh được củng cố .
b. Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh
Kỳ họp thứ IV, Quốc hội khóa I : “Ra sức củng cố miền Bắc bằng cách đẩy mạnh và hoàn thành cải cách ruộng đất đúng theo kế hoạch , ra sức khôi phục kinh tế và phát triển kinh tế- văn hóa “
* Nông nghiệp:
+ Khẩn hoang, tăng vụ , tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông cụ.
+ Xây dựng công trình thủy nông mới ,mở rộng diện tích tưới và tiêu nước.
+ Năm 1957, sản lượng lương thực đạt trên 4 triệu tấn, nạn đói kinh niên ở miền Bắc căn bản được giải quyết.
* Công nghiệp:
+ Khôi phục, mở rộng và xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp mới.
+ Cuối năm 1957, có 97 nhà máy, xí nghiệp lớn do nhà nước quản lý.
* Thủ công nghiệp, thương nghiệp:
+Nhanh chóng khôi phục, đảm bảo cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân.
+ Giải quyết việc làm cho người lao động .
+ Ngoại thương tập trung trong tay nhà nước .Năm 1957 , miền Bắc mua bán với 27 nước.
* Giao thông vận tải: khôi phục 700 km đường sắt, sửa chữa và làm mới hàng nghìn km đường ô tô, xây dựng bến cảng, đường hàng không dân dụng quốc tế …
* Văn hóa, giáo dục được đẩy mạnh .
+ Hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm .
+ Xây dựng trường đại học .
+ Hơn 1 triệu người được xóa mù.
* Y tế:
+ Được quan tâm xây dựng.
+ Nếp sống lành mạnh , giữ gìn vệ sinh được vận động thực hiện ở khắp mọi nơi.
c. Ý nghĩa:
+ Củng cố chính quyền dân chủ nhân dân.
+ Tăng cường khả năng phòng thủ đất nước.
+ Mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất .
+ Quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới.
2.2 Cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội (1958 – 1960)
2.2.1 Cải tạo quan hệ sản xuất:
* 1958 – 1960:
- Miền Bắc đã cải tạo quan hệ sản xuất XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ, công thương nghiệp tư bản tư doanh, khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp.
- Khắp nơi sôi nổi phong trào vận động xây dựng hợp tác xã .
- Cuối 1960, miền Bắc có trên 85% hộ nông dân với 70 % ruộng đất vào hợp tác xã nông nghiệp, hơn 87 % thợ thủ công, 45 % người buôn bán nhỏ vào hợp tác xã.
- Đối với tư sản dân tộc , ta cải tạo bằng phương pháp hòa bình, cuối 1960 có hơn 95 % hộ tư sản vào công tư hợp doanh .
* Kết quả: Đã xóa bỏ cơ bản chế độ người bóc lột người, thúc đẩy sản xuất phát triển.
* Hạn chế:
- Sai lầm như đồng nhất cải tạo với xóa bỏ tư hữu và các thành phần cá thể.
- Thực hiện sai nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là tự nguyện, công bằng, dân chủ nên không phát huy tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất .
2.2.2 Bước đầu xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội:
* Kinh tế:
- Trọng tâm là phát triển kinh tế quốc doanh.
- Năm 1960 có 172 xí nghiệp lớn do trung ương quản lý và 500 xí nghiệp do địa phương quản lý.
* Văn hóa, giáo dục, y tế:
- Kinh tế phát triển nên giáo dục phổ thông phát triển .
- Năm 1960 số hoc sinh tăng 80 % so với 1957.
- Cơ sở y tế tăng 11 lần so với 1955.
1.3. Miền Bắc bước đầu xây dưng cơ sở vật chất- kĩ thuật của CNXH (1961 – 1965)
1.3.1 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) tại Hà Nội .
a. Hoàn cảnh lịch sử:
- Giữa lúc cách mạng hai miền Nam – Bắc có những bước tiến quan trọng,miền Bắc thắng lợi trong việc cải tạo và khôi phục kinh tế , cách mạng miền Nam nhảy vọt sau Đồng Khởi .
- Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III từ ngày 5 đến 10/9/1960 tại Hà Nội.
b. Nội dung:
- Đề ra nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng cả nước và từng miền
+ Miền Bắc: cách mạng xã hội chủ nghĩa có vai trò quyết định nhất .
+ Miền Nam: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có vai trò quyết định trực tiếp.
+ Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó nhau nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
- Thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo sửa đổi điều lệ Đảng.
- Thông qua kế họach 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH ở miền Bắc.
- Bầu BCH Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư. * Ý nghĩa: là Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
1.3.2 Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 – 1965).
Xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm
* Nhiệm vụ :
- Ra sức phát triển công ngiệp và nông nghiệp .
- Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa .
- Củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh .
- Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động .
- Củng cố quôc phòng, tăng cường trật tự và an ninh xã hội .
* Công nghiệp:
- Được ưu tiên xây dựng, vốn đầu tư chiếm 48%, trong đó công nghiệp nặng chiếm 80%
- Giá trị sản lượng công nghiệp nặng năm 1965 tăng 3 lần so với 1960.
- Công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng 93% tổng giá trị sản lượng công nghiệp miền Bắc , giữ vai trò chủ đạo .
- Công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công đã giải quyết được 80% hàng tiêu dùng .
* Nông nghiệp:
- Đại bộ phận nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp.
- Các hợp tác xã bậc cao ra đời , áp dụng khoa học – kỹ thuật .
- Hệ thống thủy nông phát triển .
- Nhiểu hợp tác xã vượt năng suất 5 tấn thóc / ha.
* Thương nghiệp:
- Thương nghiệp quôc doanh được được ưu tiên phát triển, góp phần phát triển kinh tế.
- Củng cố quan hệ sản xuất mới , ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
* Giao thông :
- Đường bộ , đường sắt, đường liên tỉnh, đường sông,đường hàng không được củng cố .
- Việc đi lại trong nước và giao thông quốc tế thuận lợi .
* Giáo dục – y tế :
- Giáo dục từ phổ thông đến đại học phát triển nhanh.
- Xây dựng 6.000 cơ sở y tế , xóa bỏ nhiều dịch bệnh .
* Nghĩa vụ hậu phương :
- Chi viện cho miền Nam vũ khí , đạn dược, thuốc men .
- Nhiều đơn vị vũ trang, cán bộ quân sự, y tế giáo dục, bộ đội đưa vào nam chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng.
* Kế hoạch năm năm đang thực hiện có kết quả ngày 7/02/1965, Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, miền Bắc chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện chiến tranh.
1.4 Miền Bắc từ 1965 – 1975
Theo đường lối của Đảng, nhân dân miền Bắc tiếp tục xậy dựng CNXH trong hoàn cảnh có chiến tranh. Sở dĩ như vậy là do ta vẫn vẫn có điều kiện xây dựng và phải tiến hành thì mới có sức chi viện cho Miền Nam . Từ 1965 – 1975, Miền Bắc trải qua 4 giai đoạn
- Giai đoạn 1 (1965 – 1968) : đánh bại chiến tranh phá hoại của Mỹ, tiếp tục xây dựng CNXH.
- Giai đoạn 2 (1969 – 1971) : hòa bình và khôi phục kinh tế
- Giai Đoạn 3 (1972) : đấu tranh chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ (từ tháng 3 – tháng 12 – 1972), tiếp tục xây dựng CNXH trong điều kiện chiến tranh.
- Giai đoạn 3 (1973 – 1975) : khôi phục và phát triển kinh tế.
Trong 10 năm ấy, Miền Bắc sôi nổi tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Khẩu hiệu hành động của tất cả các ngành, các giới và cả nhân dân Miền Bắc là: “tay búa tay súng”, “”tay cày tay súng”, “tay bút tay súng”. Tất cả những điều đó đã giúp cho chúng ta đạt được nhiều thành tựu lớn, biểu hiện trên hai phương diện:
* Về chiến đấu chống chiến tranh phá hoại:
Ta đã đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ, buộc Mỹ phải chấp nhận ngồi vào bàn kí kết Hiệp định Paris .
* Trong công cuộc xây dựng đất nước
Nhân dân ta tiếp tục xây dựng XHCN trong mọi hoàn cảnh và đạt được nhiều thành tựu lớn.
- Nông nghiệp: vẫn sản xuất bình thường, các hợp tác xã áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật, áp dụng những loại giống năng suất cao, kể cả trồng trọt và chăn nuôi. Nhờ đó, có nhiều nơi đạt được năng suất 5 tấn thóc/hecta, 1 số còn đạt 6 – 7 tấn.
- Công nghiệp: không xây dựng được các cơ sở sản xuất lớn, ta chuyển snag xây dựng mô hình vừa và nhỏ. Việc thực hiện phân tán, và kịp thời sơ tán các nhà máy, xí nghiệp ra nhiều nơi để thuận lợi cho việc sản xuất. Đến 1975, Miền Bắc đã có 1500 nhà máy, xí nghiệp; có 400 hợp tác xã được trang bị cơ khí quy mô nhỏ. Đội ngũ cán bộ nhanh chóng phát triển, đến năm 1975 đã gấp 19 lần năm 1960.
- Thủ công nghiệp: nhờ việc đẩy mạnh việc phát triển và đa dạng hóa các ngành nghề thủ công, chúng ta đã sane xuất được hầu hết các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và phục vụ cho đời sống của nhân dân, cán bộ, bộ đội.
- Giao thông vận tải: Đây là mặt trận nóng bỏng nhất vì địch dùng đến 60% lượng bom đạn để đánh phá Miền Bắc vào các đầu mối giao thông nhằm mục đích ngăn chặn sự chi viện của Miền Bắc vào Miền Nam. Để chống lại âm mưu này, ta đã nêu ra khẩu hiệu: “địch đánh ta cứ đi”, “địch phá ta sửa ta đi”, “địch lại phá ta lại sửa ta đi”,…nhiều hệ thống giao thông chiến lược ngày càng phát triển. Công tác đường giao thông được kết hợp với cải tiến ruộng dồng, do đó xuất hiện các mạng lưới giao thông liên tỉnh, liên thôn. Nhân dân ta còn sáng tạo ra nhiều loại cầu: cầu xi măng, cầu sắt, cầu treo, cầu phao, cầu ngầm,… Đắc biệt là xây dựng và cũng cố tuyến đường 559 – đường Trường Sơn.
- Văn hóa – Giáo dục – Xã hội
Văn hóa – giáo dục không ngừng phát triển qua từng thời kì, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nếu như thời Pháp thuộc, nước ta chỉ có 10 trường tiểu học thì đến năm 1975, ở mỗi xã đã có một trường cấp I, một trường cấp II, mỗi huyện có ít nhất một trường cấp III. ở Miền Bắc đã có gần 100 trường Đại học, học viện nghiên cứu, trường cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp với hàng chục vạn sinh viên, tính trung bình 3 người dân thì có một người đi học.
Mạng lưới y tế được phát triển rất rộng rãi, số lượng cán bộ y tế phát triển rất nhanh đáp ứng đầy đủ việc nghiên cứu chữa thương, bệnh binh, khám và chữa cho nhân dân. Nhiều thầy thuốc trưởng thành nhanh chóng trong thực tiễn, đạt trình độ khoa học cao. Đên năm 1975, ở mỗi xã đều có trạm y tế, ở mỗi huyện đã có bệnh viện, ngành y tế đã có trên 10 vạn cán bộ, trong đó có 2,8 vạn người có trình độ y – bác sĩ.
1.5 Việt Nam từ sau khi thống nhất đến trước khi tiến hành “Đổi mới” (1976 – 1986)
1.5.1 Thời kỳ 1976 - 1982
Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam được quyết định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc năm 1976. Đường lối kinh tế chủ đạo của Việt Nam từ thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa và lao động khác), xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
Để thực hiện điều này, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống kinh tế trong đó:
- Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên, nông dân ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ được khuyến khích tham gia sản xuất tập thể,
- Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất.
- Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ Kinh tế từ năm 1978.
Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ, nên việc phân phối bị kiểm soát bằng chế độ tem phiếu. Chế độ phân phối này chấm dứt vào năm 1994 khi chính sách tiền tệ hóa được hoàn tất
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có cả “do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội” dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến lãng phí lớn về sức người, sức của;... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của Trung ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của đất nước.... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với cách kế hoạch hóa gò bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa phương và ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung ương cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp, cản trở sản xuất và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những người lao động ... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những biện pháp có hiệu quả". Hậu quả nghiêm trọng phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực thi "đánh tư sản mại bản", tiêu diệt tiết kiệm vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng
1.5.2 Thời kỳ 1982 - 1986
Năm 1982, Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận kinh tế Việt Nam trong thời kỳ 1976-1980 là: "kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn nhiều khó khăn". Vì thế, từ năm 1982, Đảng này quyết định Việt Nam sẽ tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp và coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, và kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, tăng cường phân cấp cho địa phương trong công tác sản xuất và quản lý sản xuất. Kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, kinh tế gia đình được khuyến khích. Thị trường không có tổ chức bị quản lý chặt chẽ.
Tuy nhiên, thời kỳ 1981-1985 kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đã đề ra trong nghị quyết đại hội V là cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá - lương - tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế đất nước đến những khó khăn mới. Nền kinh tế-xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Siêu lạm phát xuất hiện và kéo dài.
Để vượt qua khó khăn, các địa phương nhất là địa phương ở Nam Bộ đã có những biện pháp “xé rào” như khoán hộ, khoán sản phẩm, bù giá vào lương, tăng cường quan hệ ngoại thương với các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Những biện pháp “xé rào” này đã mang lại những hiệu quả nhất định trong tăng năng suất sản xuất, giải quyết tình trạng khan hiếm hàng hóa và nợ lương người lao động. Vì thế, chúng đã thu hút được sự chú ý của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (hay Khoán 100 gọi dựa theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung ương Đảng CSVN khóa IV) và mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh (nghị quyết 25/CP của Chính phủ) được Đảng và Chính phủ cho phép thí điểm và dần áp dụng rộng rãi từ năm 1981. Ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, một số nhà nghiên cứu kinh tế gồm cả những người được đào tạo thời Việt Nam Cộng hòa đã được lãnh đạo Đảng triệu tập để nghiên cứu, chuẩn bị cho Đổi Mới.
Những thực tiễn “xé rào” và lý luận mới trên đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam triển khai chính thức chương trình Đổi mới tư duy quản lý kinh tế mà thể hiện trước hết là nghị quyết của Đại hội VI tổ chức vào giữa tháng 12 năm 1986. Và, giai đoạn “Đổi Mới” bắt đầu từ năm 1987.
2. Việt Nam 20 năm tiến hành “Đổi mới” (1986 – 2006)
2.1 Việt Nam từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc… Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương, chính sách, sản xuất trong nước ngày càng phát triển, lưu thông ngày càng thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, xã hội ngày càng lành mạnh, qua đó, chế độ XHCN ngày càng được củng cố…
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và về thời kỳ quá độ lên CNXH, dựa vào những kết quả bước đầu của sự đổi mới từng phần, lắng nghe, tổng kết sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân, của các địa phương và cơ sở, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã hoạch định đường lối đổi mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, nhiều Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và đặc biệt Đại hội VII (6-1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII (6-1996) và Đại hội IX (4-2001) đã không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Có thể thấy rõ những nội dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận thức, tư duy lý luận và cả về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn suốt 20 năm qua.
Trước hết, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”1. Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”2. Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là là đã đưa quan hệ sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu, tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, từ đó điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. Các quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là các quy luật kinh tế đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có hiệu quả hơn. Khi quyết định đường lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.
Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính Lênin cũng cho rằng tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn toàn là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX bổ sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trong quá trình đổi mới, 20 năm qua, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế đương nhiên là có nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý dứt khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội. Từ HNTW3 khoá VII (6-1992), đặc biệt từ HNTW6 (lần 2) khóa VIII (1-1999) Đảng đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính sách để điều hành, quản lý nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. Từ sau Đại hội VII, đặc biệt là HNTW8 khoá VII (1-1995), HNTW3 khoá VIII (6-1997) đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quan điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là thống nhất, song có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ Quốc hội khoá VIII (1987), khoá IX (1992), khoá X (1997) và khoá XI (2002) hoạt động của Quốc hội ngày càng đổi mới và thực hiện có hiệu quả các chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và quyền giám sát tối cao. Từng bước đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước cả về chức năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức. Bộ máy và hoạt động tư pháp được củng cố và tăng cường. Cùng với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện Nhà nước là những nội dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính trị và có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình của sự nghiệp đổi mới.
Thứ tư, thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng đã rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chính lợi ích sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới... Một trong những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới mà HNTW6 (khoá VI) 3-1989 nêu ra là phải thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng dân chủ luôn luôn gắn liền với tập trung, gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, với kỷ cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ. Nghị quyết Trung ương 8B (khoá VI) 3-1990 về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đảng nhấn mạnh các quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đảng cũng chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Cùng với Đảng, Nhà nước, tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động, Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh hợp thành hệ thống chính trị. Công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.
Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hoá, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta đã nêu rõ chủ trương: khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao. Đi đôi với công bố luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh. Luật đầu tư nước ngoài là luật sớm nhất của thời kỳ đổi mới, được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 29-12-1987 và có hiệu lực từ 1-1-1988. Đại hội VII của Đảng tuyên bố chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh sự hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. Đại hội IX của Đảng tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Đảng ta luôn luôn xác định, nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Với những nội dung rất căn bản và chủ yếu trong đường lối đổi mới cùng với bản lĩnh chính trị vững vàng và trách nhiệm trước đất nước, giai cấp và dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức, kể cả tác động tiêu cực do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đưa lại, không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo con đường của chủ nghĩa xã hội và qua 20 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân, như các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã khẳng định.
2.2 Thành tựu
2.2.1 Chuyển biến nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Có thể nói, đây là thành quả to lớn và quan trọng của nghiên cứu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam . Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN là mô hình kinh tế mới mẻ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tư duy lý luận và nhận thức về KTTT định hướng XHCN là một quá trình lâu dài, thường xuyên và qua nhiều bước với mục tiêu không thay đổi là xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội; trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế KTTT không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ gồm lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy rõ ràng là không thể có một nền KTTT chung chung, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước.
KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng XHCN. Vì thế KTTT ở nước ta vừa có những đặc trưng chung, phổ biến của mọi nền KTTT, vừa có những đặc trưng mang tính đặc thù - định hướng XHCN. Theo tinh thần của các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ VI đến lần thứ X định hướng XHCN nền KTTT thể hiện ở các nội dung sau đây: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, đồng thời khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn; phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội; phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sự khác nhau về bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình phát triển là điều kiện, là một “tiêu thức” quy định đặc trưng bản chất của nền KTTT nước ta.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định thành công sự phát triển rút ngắn, bền vững nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, KTTT... mới không bị chệch định hướng XHCN.
2.2.2 Những thành tựu về kinh tế, xã hội
- Tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thời kỳ 1992-1997 tăng bình quân 8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007: 7,55%/năm. Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6,23%. - GDP/người/năm: 1995 là 289 USD, năm 2005 là 639 USD, năm 2007: 835 USD và năm 2008 đạt 1.024 USD. - Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% GDP. Hợp tác và hợp tác xã chiếm 6,8% GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,9% GDP. |
Hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình KTTT định hướng XHCN, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước.
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289 USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến 3.385 USD).
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế .
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa, tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. Từ một quốc gia bị phong toả, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm với mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam . Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”.
2.3 Những hạn chế
Trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta cũng vấp phải những sai lầm, những hạn chế nhất định về kinh tế, về chính trị, văn hóa, giáo dục,… Tuy nhiên, điều đó chỉ là những điều rất nhỏ so với những thành quả mà công cuộc “Đổi mới” mang lại.
III. VẬN DỤNG KIẾN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
1. Trong đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng CN Mac - Lênin và TTHCM.
Bằng kinh nghiệp xương máu chúng ta thấy rằng chế độ thực dân phong kiến, đế quốc đã kềm hãm nước ta trong vùng nghèo đói, lạc hậu, tối tăm. Thấm nhuần lời dạy của Bác: “Nước có độc lập mà dân vẫn cứ đói, vẫn cứ rét thì độc lập tự do cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Muốn cho dân giàu, nước mạnh không có con đường nào khác là phải tiến lên CNXH, chỉ có CNXH mới thực hiện được “ham muốn tột bậc” của Người và khát vọng ngàn đời của dân tộc ta.
Độc lập dân tộc là điều kiện để xây dựng thành công CNXH, và CNXH là cơ sở bảo đảm cho độc lập dân tộc vững bền.
Ngày nay, đổi mới là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Để hoàn thành mục tiêu trên, đổi mới không bao giờ là thay đổi mục tiêu XHCN. Tự do tư sản chỉ là cái bánh vẽ mà Liên xô và Đông âu phải trả giá, quyết không phải là sự lựa chọn của chúng ta.
Tuy nhiên xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở một nước nghèo nàn lạc hậu là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn phức tạp, chúng ta phải khôn ngoan, sáng tạo, phải biết vận dụng các công cụ kinh tế thị trường để phục vụ cho CNXH, sao cho đạt mục đích, nhưng không chệch mục tiêu đã định.
2. Đổi mới là sự nghiệp của dân , do dân, vì dân, do đó phải phát huy quyền làm chủ của dân, khơi dậy mạnh mẽ nội lực để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Khai thác triệt để mọi nguồn lực ở bên trong, nhất là nguồn lực con người, phải thu hút tốt các nguồn lực bên ngoài, phải lấy nguồn lực bên trong làm gốc, phải sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Phải quán triệt quan điểm: Tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng CNXH; CNXH là công trình tập thể của người dân, phải đem tài dân sức dân làm lợi cho dân. Tạo không khí dân chủ trong XH, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, phải nâng cao bản lĩnh công dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân để đi lên.
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Công cuộc đổi mới của ta diễn ra trong lúc cuộc CM KHCN trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, tác động mạnh mẽ vì thế cần tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Giao lưu hội nhập nhưng phải giữ gìn bản sắc dân tộc, hòa nhập nhưng không hòa tan, hòa nhập với thế giới để khai thác tất cả những gì tinh túy nhất, tốt đẹp nhất. Nâng cao bản lĩnh tiếp thu văn hóa nhân loại, chống văn hóa độc hại.
4. Xây dựng đảng, xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cần kiệm xây dựng đất nước
Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên trong hệ thống chính trị, trong các doanh nghiệp trong sạch, liêm khiết, thật sự là đầy tớ của dân, xử lý những cán bộ thoái hóa, tham nhũng.
Cũng cố quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân do dân vì dân, quán triệt tinh thần tiết kiệm của Bác Hồ: sản xuất không tiết kiệm thì như gió vào nhà trống. . .
IV. KẾT LUẬN
Mặc dù trong quá trình “đối mới”, chúng ta không tránh khỏi những sai lầm, những khuyết điểm không nhỏ. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước đã cố gắng khắc phục, từng bước đưa đất nước đi lên CNXH một cách kiên định theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Chúng ta – thế hệ trẻ, tương lai của đất nước phải luôn cố gắng nắm bắt CN Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp
5 nhận xét:
Cảm ơn pạn Phước đã đăng bài. Mình xin lấy một số thông tin trong bài làm tư liệu cho bài thảo luận.
Cám ơn bạn rất nhiều
bai viet kha hay
cam on ban nhieu
Cảm ơn sự quan tâm của các bạn! Chúc các bạn luôn học tốt!
Mong bạn tìm nhiều bài viết như thế này để chúng mình có thế tham kháo, thanks
Đăng nhận xét