KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
Franz Kafka chiếm một vị trí đặc biệt trong văn học hiện đại phương Tây. Cùng với Marcel Proust, James Joyce, William Faulkner..., Franz Kafka được xem là một trong những nhà cách tân lớn nhất.
Cách tân nghệ thuật độc đáo nhất của Franz Kafka chính là nghệ thuật biểu hiện cái phi lý trong việc tạo dựng không gian. Nhân vật của F. Kafka tồn tại trong một thế giới vô nghĩa với những mê cung cuộc đời, những thiết chế quyền lực vô hình, một thế giới ngột ngạt, tù túng. Các nhân vật thích nghi với thế giới này, thậm chí không chịu nổi khi tách ra khỏi nó. F. Kafka miêu tả con người trong một thế giới mà ta cảm nhận được là hình ảnh của những cơn ác mộng với những nỗi lo âu trần thế. Lại nữa, tính chất phi lý còn thể hiện ở chỗ, thế giới hiện thực chỉ được nhắc qua, còn thế giới ảo lại được mô tả đến từng chi tiết, khiến cái ảo hiện lên như là cái thực.
Qua khảo sát hai bộ tiểu thuyết Vụ án, Lâu đài và một số truyện ngắn của tác giả, chúng tôi nhận thấy F.Kafka đã tạo ra những hình tượng không gian mới mẻ, hiếm thấy trong lịch sử văn học trước đó: Không gian mê cung, không gian ngột ngạt tù túng, không gian ác mộng, không gian thực và ảo.
1. Không gian mê cung
Đặc điểm chung của loại không gian này là sự xuất hiện các yếu tố ngẫu nhiên, biến hóa dị thường, gây tâm lý bất an và làm mất phương hướng nhân vật chính; đẩy nhân vật chính vào kết thúc bi kịch và cái chết như là định mệnh đã an bài.
Tiểu thuyết Vụ án là một mê cung của các thiết chế quyền lực tòa án pháp luật phi lý. Jozef K – nhân vật chính của tiểu thuyết – bị bắt không rõ nguyên do. Cũng như hai tên cảnh sát, viên đội và thẩm phán được giao nhiệm vụ xét xử Jozef K nhưng cũng không biết bị cáo mắc tội gì. Jozef K phải đối mặt với bộ máy cai trị khổng lồ bí hiểm tồn tại khắp nơi, hữu hình hoặc vô hình. Anh như bị thôi miên bởi cái thế giới đó, cái tổ chức bí mật đó, những người canh giữ luật pháp đó, họ hỏi cung và thẩm vấn không cần biết tại sao. Bị lạc vào mê cung pháp luật, Jozef K không còn tự minh oan cho mình được, phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác như Tiến sĩ Hun, nhà kỹ nghệ gia, Họa sĩ Titoreli... Song, anh phát hiện thấy bọn chúng cũng là tay chân, dây mơ rễ má của trật tự tối cao ấy, là những tên ngớ ngẩn, dốt nát, bịp bợm và bất minh. Các lối thoát dần đóng lại. Và Jozef K đã bị xử tử mà không biết tội trạng, không được khiếu nại.
Tiểu thuyết Lâu đài “là hình ảnh huyền thoại về một tổ chức quyền lực quan liêu với những sợi dây vô hình đã trói buộc cuộc đời của từng con người”.
Thế giới của Lâu đài là thế giới của mê cung, mang sức mạnh siêu nhiên. Con đường dẫn K vào Lâu đài là một tiểu mê cung. Ngay từ đầu, K đã muốn đi vào nhưng con đường rất dài và nó không dẫn chàng đến Lâu đài. Khi đến gần, dường như cố ý, nó lại vòng sang lối khác. Nhìn từ xa, K có thể thấy Lâu đài, song chàng không thể và vĩnh viễn không bao giờ đến được
Cùng với con đường, hình ảnh Lâu đài thấp thoáng hiện lên trái với logic thông thường. Lâu đài không có vẻ cổ kính, tráng lệ mà chỉ là những quần thể nhà hợp thành, không ai biết đó là Lâu đài. Có một tháp chuông nhưng không thể nhận ra đó là tháp chuông ở nhà thờ hay của nhà ở. Con quạ xuất hiện báo hiệu sự chết chóc. Đó là quan sát từ xa. Còn nhìn gần, “Lâu đài này trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại”. Tiếng chuông nghe ma quái “Đổ từng hồi trầm ấm vang lên một cách vui vẻ, tiếng chuông như đe dọa vì nó cũng vang lên đau đớn”. Sau đó là những tiếng chuông yếu ớt vang lên “lay lắt”.
Bộ máy hành chính của Lâu đài cũng là một thứ mê cung. Lâu đài thông qua những mắt xích vô tận các viên chức, thư ký, liên lạc đều nhằm đích là chống lại K. Ngẫu nhiên, Lâu đài viết thư nhận K làm đạc điền, rồi có thư khen thưởng K về công việc tuy thật ra K chưa hề biết công việc đạc điền. Qua những cuộc tiếp xúc của K với nhân viên Lâu đài, ta thấy K bị lừa. Viên trưởng thôn đã nói trắng ra: “Những cuộc tiếp xúc ấy chỉ là giả tạo, nhưng vì thiếu hiểu biết ông lại tưởng thật”. K chỉ còn biết tìm đến chánh thanh tra Klamm để tìm hiểu thực hư. Song, Klamm là một chánh thanh tra quan liêu, không thèm nói chuyện với bất cứ ai trong làng, chưa một ai thật sự biết mặt y, bởi Klamm luôn thay đổi hình dạng, bí hiểm. Vì vậy, K cố biết sự thật về Lâu đài, nhưng càng theo đuổi mục đích này, anh lại càng xa nó hơn. Lâu đài là một mê cung của thế giới hành chính quyền lực vô hình. Nó cũng giống như mê cung luật pháp trong Vụ án: không thể tiếp cận, không thể tìm gặp, nó tồn tại trong cụ thể; khắp mọi nơi đều có nó mà vẫn như không có nó.
Với ba tiểu mê cung F. Kafka đã tạo dựng thành một đại mê cung của Lâu đài. F. Kafka cho thấy rõ nguyên nhân bị lưu đày của con người trong thế giới hiện đại, trong mê cung của những thiết chế mờ ám và phi lý được bày đặt ra như những cái bẫy, con người bị tước mất khả năng tìm hiểu và thiết lập quan hệ đối với thế giới một cách bình thường, con người không phải chủ nhân mà là nạn nhân của thế giới.
Trong truyện ngắn Trước cửa pháp luật, F. Kafka đưa ra kiểu kết cấu mê cung khác, đó là kết cấu trùng điệp của nhiều vòng bảo vệ cửa pháp luật. Càng vào trong, các vòng cửa pháp luật càng có sức mạnh bí hiểm. Bác nông dân đến xin vào cổng pháp luật, khi nghe người bảo vệ vòng đầu kể về mê cung pháp luật ấy, bác không dám bước qua cửa, đứng chôn chân đợi rồi gục chết ở đó: “Nếu bác muốn thì cứ thử vượt quyền tôi mà vào thử xem. Nhưng bác nên nhớ rằng: tôi có sức mạnh đấy nhé. Đã thế, tôi mới chỉ là bảo vệ ở vòng ngoài, trong kia trước mỗi vòng cửa còn có các nhân viên bảo vệ khác nữa, người bảo vệ vòng trong lại khỏe hơn người vòng ngoài. Ngay cả tôi mà còn không dám nhìn mặt người bảo vệ ở vòng ba cơ đấy”.
Nếu như Lâu đài, Vụ án, Trước cửa pháp luật không gian mê cung là không gian của các thiết chế quyền lực bí hiểm về bộ máy hành chính, bộ máy pháp luật tòa án phi lý thì truyện ngắn Hang ổ không gian mê cung là không gian của hệ thống đường ngầm chằng chịt những “đường ngang lối dọc”, là công trình được tạo ra bởi một con vật luôn sống trong tâm trạng bất an giữa một thế giới thù địch. Để chống lại kẻ thù, chống lại sự bất an, con vật đã tạo ra mê cung rắc rối đó, kẻ thù của nó nếu tấn công vào hang sẽ bị “chết ngợp trong dãy mê cung này”. F. Kafka miêu tả cái hang ổ đầy bí hiểm, khó định vị được rõ ràng: “Cách chỗ này một nghìn bước chân gì đó mới thật sự là lối vào chỗ ở của tôi, nó nằm ẩn, dưới một lớp rêu”, “cứ một trăm mét tôi lại mở rộng đường hầm của mình, tôi khoét những hầm tròn nhỏ ở giữa ngã tư đường hầm”. Hang ổ có khoảng năm mươi chỗ được che kín và một pháo đài trung tâm kiên cố. Pháo đài có diện tích rộng gấp mười lần so với những khoảng trống trong rừng, có mười ngách tỏa ra “Mỗi ngách tùy theo sơ đồ tổng thể đi sâu xuống hoặc đi lên, kéo dài ra hoặc lượn vòng tròn, mở rộng hoặc thu hẹp”. Chính tác giả của công trình nhiều lúc cũng bị lạc trong mê cung của mình, khi ấy mê cung trở thành kẻ thù của nó. Như vậy, thế giới mê cung của Hang ổ tồn tại trong bản thể nó một điều nghịch lý: mê cung được tạo ra là nơi để trú ẩn, làm tan những lo âu, nhưng chính mê cung ấy cũng đồng thời là điều lo âu, thù địch, một khi chủ nhân của nó bị lạc lối, mất phương hướng.
2. Không gian ngột ngạt tù túng
Trong văn học truyền thống, con người thường hòa mình vào không gian vũ trụ, được hít thở căng tròn buồng phổi không khí trong lành của vũ trụ bao la mà tự nhiên ban tặng. Con người trong sáng tác của F. Kafka lại khác, hầu như chỉ tồn tại trong không gian ngột ngạt tù túng. Con người quen thuộc gắn bó với không gian này đến nỗi không thể sống thiếu nó được. Tính chất phi tự nhiên, phản truyền thống của không gian ấy là một ẩn dụ sâu sắc về sự tha hóa của con người.
Trong bộ tiểu thuyết Lâu đài, Vụ án, và một số truyện ngắn của F. Kafka, ta thường gặp những đoạn phim ngắn ghi lại hình ảnh những căn phòng chật hẹp yếm khí, thế giới đồ vật được bố trí bề bộn trong đó lấn át đi phần tồn tại của con người, làm không gian ấy càng ngột ngạt hơn. Ở tiểu thuyết Lâu đài, căn phòng người ta bố trí cho người đạc điền nơi quán trọ là một cái gác xép không được thông gió. Những người giúp việc nơi quán trọ luôn ở trong ánh điện, trong bầu không khí ngột ngạt, nghỉ ngủ chui rúc ở xó xỉnh nơi nhà kho, nhà bếp. Những đám nông dân chen chúc nơi quán trọ sặc sụa mùi bia rượu. Chánh thanh tra Klamm sống trong một căn phòng kín, tách biệt với thế giới bên ngoài, chỉ được thông với bên ngoài bằng một cái lỗ nhỏ thiếu sinh khí. Đặc biệt F. Kafka đã phủ mờ không gian lạnh lẽo của tuyết xuống Lâu đài, xuống làng “Ở dưới này tuyết ngập đến cửa sổ của những ngôi nhà nhỏ, treo thành từng khối từ trên các mái nhà đến mức gần như rũ xuống đến mép cửa sổ”. Trong những căn nhà nhỏ, nhiều người sống chen chúc bất luận trẻ con hay người già, thanh niên hoặc phụ nữ. Người ta sống trong căn phòng tranh tối tranh sáng, không khí tù mù bốc lên từ các lò sưởi ảm đạm ngột ngạt và tù túng tưởng chừng như vượt quá giới hạn chịu đựng của con người.
Đến Vụ án, không gian ngột ngạt tù túng lại xuất hiện dày đặc hơn. Căn phòng xét xử Jozef K lần đầu tiên chật ních người, trần nhà lại quá thấp “người ta đứng chen chúc, ai cũng phải lom khom, đầu và lưng đụng vào trần nhà”. Căn phòng tối lờ mờ, đầy bụi bặm và khói, đám đông ăn mặc tồi tàn, thậm chí có người còn mang theo gối, đệm, đội lên đầu để khỏi va vào trần. Tòa án được bố trí ở vị trí tầng nóc ọp ẹp, không khí nặng nề. Luật sư Hun sống trong căn phòng thấp lè tè, không có cửa sổ và kê vừa đủ một chiếc giường hẹp. Họa sĩ Titoreli sống trong một căn phòng mà theo Jozef K “Chưa bao giờ tự mình quan niệm nổi một cái buồng con tồi tàn như thế mà người ta có thể gọi được là xưởng vẽ. Ngang dọc mỗi chiều không nổi lấy được trông hai bước chân”. Tệ hại hơn, căn phòng lại bừa bộn những chăn, gối, đệm, quần áo, tranh ảnh và đặc biệt là chưa được thông khí. Thế giới đồ vật, khoâng gian ngột ngạt đã chiếm không gian tồn tại con người. Con người quá nhỏ bé trước thế giới, sự tồn tại của con người là không thực, tồn tại mà như không tồn tại, sống mà dường như đã chết.
Cái phi lý của Vụ án là ở chỗ, những nhân vật của tòa án lại thích nghi hoàn toàn với không khí ngột ngạt tù túng trong phòng làm việc, cái nơi mà “Mặt trời hun nóng mái nhà ghê gớm. Xà nhà bỏng rẫy. Nhưng sau rồi người ta cũng hoàn toàn quen với bầu không khí này. Khi nào ông (Jozef K) trở lại đây lần thứ hai, hay lần thứ ba ông sẽ hầu như không cảm thấy ngột ngạt nữa". Luật sư Hun không ý thức được chỗ ở của mình là yếm khí chật hẹp, nguyên nhân tạo ra căn bệnh trầm kha. Họa sĩ Titoreli lại cho rằng căn phòng như cái hộp bề bộn ấy là nơi lý tưởng để vẽ tranh. Thậm chí nếu thay đổi cái không khí ngột ngạt tù túng ở các căn phòng thì nhân viên tòa án cũng không thể chịu nổi. Đây là một cảnh Jozef K đã chứng kiến khi cô gái và nhân viên chỉ đường đưa anh ra ngoài văn phòng của tòa án: “Họ chịu đựng có vẻ khó nhọc làn không khí tương đối mát mẻ từ cầu thang lùa vào, vì đã quen với bầu không khí trong các văn phòng. Họ hầu như không đáp lại được và có lẽ cô gái đã ngã xỉu nếu anh không đóng vội cửa lại”(12). Bởi vậy, thế giới trong sáng tác của F. Kafka chồng chất những cung bậc phi lý, tưởng là không tồn tại mà lại tồn tại, thậm chí tồn tại thực hơn cái hiện thực, là thế giới hiện hữu ta đang sống.
3. Không gian ác mộng
Nhân vật Gregor Samsa (Hóa thân) khi tỉnh giấc thấy mình biến thành một côn trùng khổng lồ. Đó là không gian của ác mộng, là hình ảnh của thế giới vô thức mà ta thường thấy trong giấc mơ. F. Kafka đã dùng ngòi bút điêu luyện đi vào mô tả giấc mơ đó thật cụ thể, như thật: “Gregor Samsa nằm trên giường thấy mình biến thành một côn trùng khổng lồ, lưng anh rắn như thể được bọc kín bằng giáp sắt, anh nằm ngửa dợm nhấc đầu lên và nhìn thấy bụng mình khum tròn, râu bóng, phân chia thành nhiều đốt cong cứng đờ; tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch, gần tuột hẳn. Chân anh nhiễu ra, mảnh khảnh thảm hại so với phần còn lại của thân hình to đùng, vung vẫy bất lực trước mắt anh”. Gregor Samsa bắt đầu sống với ảo giác, anh bàng hoàng, nửa tin, nửa ngờ. Tin là vì anh vẫn ngủ trong thế giới bình thường của con người, nửa ngờ là thân hình anh biến đổi kỳ dị. Trạng thái, cảm giác của Gregor Samsa đó là trạng thái, cảm giác của một ác mộng kinh hoàng.
Jozef K (Vụ án) cũng tương tự. Anh vừa tỉnh giấc, bỗng hai kẻ lạ mặt đập cửa xông vào bắt anh. Jozef K không biết kẻ bắt mình là ai, tại sao anh lại bị bắt. Anh đang sống trong tâm trạng không biết đây là hư hay thực, tỉnh hay mê. Jozef K cố phản kháng chống lại tòa án, tìm người cứu giúp. Song cảnh cuối cùng, cũng là cảnh kinh hoàng khiếp sợ nhất, hai gã đao phủ thọc dao vào tim anh ngoáy ngoáy.
Ngòi bút F. Kafka đã hòa quyện một cách rất tự nhiên giữa cái quái dị và cái thường ngày đến độ không sao phân định được một trong hai yếu tố đó, cái nào nảy sinh từ cái nào. Người ta ngột ngạt trong không khí ác mộng nhưng câu chuyện lại hết sức mạch lạc, chính xác khiến sự phi lý thật hơn cả thực tại.
Có khi không gian ác mộng được đặt vào điểm nhìn chiều sâu vô thức của chính nhân vật, nghĩa là nhân vật đang trong cơn ác mộng và tác giả là người thư ký trung thành ghi lại giấc mơ đang diễn ra của chính nhân vật ấy. Đó là trường hợp được thể hiện trong truyện ngắn Một giấc mơ (A Dream). Nhân vật chính của truyện là Jozef K, hoàn toàn chìm trong cõi vô thức, đang mơ về một chuyện quái dị khủng khiếp. Anh ta thấy mình lạc vào khu nghĩa địa, ở đó có lễ hội đang diễn ra vui vẻ; anh bị cuốn hút bởi một ngôi mộ mới, càng tiến lại gần thì lại càng xa nó. Rùng rợn hơn nữa, anh tiến lại gò mả mà chàng họa sĩ có khắc lên đó hàng chữ trên tấm bia. Trong giấc mơ dường như anh tiên cảm được cái gò mả ấy là nơi kết thúc định mệnh của anh. Bởi vì khi họa sĩ vẽ, có chiếc lá rơi xuống đó biến thành chữ J - đó là tên Jozef K. Khi họa sĩ đi rồi, anh đến cào lớp đất mỏng nơi ấy và bỗng nhiên có một cái lỗ mở ra, Jozef K rơi thụp xuống đó, mắc vào một hố sâu bí hiểm, cổ và đầu bị kẹt lại, tên anh được khắc vào tấm bia với những nét chữ hoa mỹ. Đến đó, Jozef K tỉnh giấc và bị mê hoặc bởi những cảnh tượng khủng khiếp ấy.
Có thể nói, F. Kafka đã thành công trong việc miêu tả hình ảnh của cõi mộng, của những cơn ác mộng có nguồn gốc từ nỗi hoang mang, lo sợ của con người trước thế giới mà nền tảng của nó là sự tha hóa giữa người với người. Sự độc đáo của F. Kafka là ông không đưa giấc mơ vào phục vụ nghệ thuật mà ngược lại, theo cách riêng, F. Kafka đã đưa nghệ thuật của mình "phục vụ" những giấc mơ, hiện thực hóa cái ảo bằng hình ảnh đầy sáng tạo.
4. Không gian thực và ảo
Đặc trưng xuyên thấm trong toàn bộ sáng tác của F. Kafka là cái thực và cái ảo không bao giờ tách biệt nhau mà chúng hòa quyện với nhau như là một bản thể mang tính hai mặt: Trong thực có ảo và trong ảo có thực. Cái hiện thực của đời sống được F. Kafka tổ chức làm biến dạng đi trở thành cái huyễn hoặc huyền ảo nhưng câu chuyện lại kể hết sức mạch lạc, chính xác đến từng chi tiết khiến không khí huyền ảo huyễn hoặc trở nên thật hơn cả hiện thực. Người ta gọi bút pháp đó là “Tượng trưng hiện thực” như đã nói ở trên.
Vấn đề Hóa thân trong truyện ngắn cùng tên của F. Kafka là phối hợp giữa không gian thực và không gian ảo. Việc Gregor Samsa – nhân viên chào hàng - sau một đêm ngủ dậy, anh thấy mình biến thành một con côn trùng khổng lồ cho ta thấy sự việc vượt ra ngoài quy luật của không gian thực, trở thành điều huyễn hoặc. Song, câu chuyện được kể một cách hiện thực triệt để trong chi tiết: cái con bọ - người Gregor ấy cảm thấy và ý thức rõ từng thay đổi sinh lý sinh học trong bản thân, đau đớn chứng kiến thái độ ứng xử của bố mẹ và cô em gái cưng chuyển từ kinh hoàng đến ân cần, rồi phẫn nộ khinh rẻ và cuối cùng là hờ hững, tất cả được biểu đạt bằng một giọng đầy trìu mến và tuyệt vọng. Chính cách kể hiện thực trong chi tiết này đã kéo cái huyễn hoặc ấy trở về với thế giới thực, thế giới con người với những lo âu thường nhật, sự phi lý trong quan hệ giữa người với người.
Tác phẩm của F. Kafka không có ranh giới giữa thực và hư, bao giờ cũng có một sự đan cài một cách rất tự nhiên cái quái dị với cái thường nhật. Tiểu thuyết Vụ án cũng là một thí dụ tiêu biểu. Nhà văn đã sử dụng chất liệu hiện thực như: bị cáo, tòa án, luật sư, thẩm phán, khu văn phòng, nhà trọ, chỗ ở của họa sĩ, nhà kỹ nghệ gia, linh mục, đao phủ... Nhưng các chất liệu ấy được nhà văn làm biến dạng đi, tổ chức lại theo một kiểu cách riêng khác với kiểu cách vốn có của đời sống thực. Bằng ngòi bút điêu luyện của mình, F.Kafka đã đưa thế giới tòa án ra các vùng ngoại ô nhớp nhúa, lên tầng áp mái của những khu cư xá; ông bố trí phòng xử án trong căn buồng vừa chật, vừa tối, vừa thấp lè tè; ông sắp xếp khu văn phòng tòa dọc các dãy hành lang cửa đóng kín mít; ông để cho họa sĩ Titoreli sống trong căn phòng bé như cái hộp, không có lỗ thông hơi, bị cáo bị kết tội nhưng không được biết lí do... Đọc truyện ngắn Mười một người con trai ta luôn bị mê hoặc bởi cảm giác nửa hư nửa thật, nửa bình thường, nửa quái dị ở trong mỗi người con trai. Người thứ nhất thông minh nhưng tư duy lại quá đơn giản, không nghĩ được rộng và cũng chẳng nghĩ được xa. Người thứ hai đẹp trai cao dong dỏng, thân hình cân đối song lại có khuyết tật, con mắt trái nhỏ hơn con mắt phải và nháy nháy liên tục. Đứa thứ ba cũng đẹp trai nhưng không phải cái kiểu đẹp mà người ta ưa thích: cái miệng tròn, con mắt mơ màng, hai tay điệu bộ, hai chân kiểu cách, giọng nói không tròn tiếng và ngây thơ. Đứa thứ tư là một đứa con thực sự của thời đại, thế nhưng ý kiến của nó lại có phần dửng dưng, một số câu cách ngôn của nó quá hời hợt. Đứa thứ năm dễ thương tốt bụng, có điều khi tiếp xúc với nó, người ta vẫn thấy mình lẻ loi, nó thật sự ngây thơ, thậm chí có thể là quá ngây thơ. Đứa thứ sáu có một niềm say mê, niềm say mê có thể làm cho nó trở nên quên mình, đến nỗi giữa ban ngày nó vẫn tỏ ra trầm tư như thể đang mơ. Nó không ốm – thậm chí có thể nói là rất khỏe - nhưng thỉnh thoảng nó vẫn hay lảo đảo, nó không cần ai giúp đỡ mà vẫn không ngã. Tuy có một số nét khá đẹp trai nhưng thân hình mất cân đối, quá cao so với tuổi, cái trán nó trông cũng khó coi, nước da và hộp sọ phần nào khô đét... Những đứa còn lại cũng mang nét quái dị, khác thường, hư hư thực thực. Kiểu không gian tượng trưng hiện thực này xuất hiện hầu hết trong sáng tác của F. Kafka.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cái thực và cái ảo, chúng xen lẫn nhau chuyển hóa lẫn nhau đã tạo ra cho sáng tác F. Kafka một không gian thứ ba: không gian huyền thoại. Không nên nghĩ rằng trong các tiểu thuyết Vụ án, Lâu đài và các truyện ngắn Hóa thân, Mười một người con trai, Thầy thuốc nông thôn,... Kafka muốn phản ánh hoặc ghi lại những câu chuyện có thật nào đó theo quan niệm thông thường của các nhà văn hiện thực. Đối với F.Kafka, những tư liệu có thật chỉ là những cái cớ để thông qua đó ông dựng lên những huyền thoại, tức là những hình tượng văn học gián tiếp và có tầm khái quát lớn mang một ẩn ý sâu, một triết lý về sự tha hóa, phi lý xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của con người hiện đại.
Có thể nói, F. Kafka là người kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa cái thực và cái hư, mở đầu cho khuynh hướng huyền thoại hóa của văn học hiện đại phương Tây. Ở ông, giữa hai bờ thực - ảo khó mà nhận ra cái nào hơn cái nào. Tính chính xác sinh động trong chi tiết đã khiến cho cái ảo, cái phi lý hiển hiện như thật, mà rất thật. Chính cách miêu tả này đã mở ra hướng đổi mới về Chủ nghĩa hiện thực trong văn học truyền thống, cũng là một đóng góp vĩ đại của F. Kafka cho văn học thế giới.
Tóm lại, bằng nghệ thuật biểu hiện cái phi lý, F. Kafka đã tạo nên những kiểu không gian mới mẻ, độc đáo, kỳ lạ hiếm thấy trong lịch sử văn chương trước đó. Đó là không gian mê cung của thế giới quyền lực bí hiểm, mê cung của cuộc đời không tìm được lối ra. Không gian ngột ngạt tù túng có tính chất khác thường, con người ta sống trong không gian ấy mà thích nghi đến nỗi, nếu thiếu nó người ta không thể tồn tại được. Không gian giấc mơ là những cơn ác mộng kinh hoàng, khủng khiếp. Sự phối hợp giữa không gian thực và không gian ảo tạo nên kiểu không gian huyền thoại mang tính chất “Tượng trưng hiện thực” (Symbolique réaliste). Có thể nói, F. Kafka không những là người có công lớn trong đổi mới kỹ thuật không gian trong văn xuôi hiện đại phương Tây đầu thế kỷ XX mà còn có công lớn trong việc phát hiện tình trạng tồn tại vô nghĩa của con người, làm phản tỉnh họ, cùng họ đi vào cuộc chiến chống phi lý. Văn chương của ông vì thế có thể được xem như là một “Tôn giáo của con người”.
2 nhận xét:
cũng được,tiếp tục đăng bài nưaz a né
Cảm ơn em! Đăng lên cũng là một điều hay, vì để mọi người cùng tham khảo và để mình lưu giữ những thứ thuộc về quá khứ của mình! Thanks em đã ủng hộ!
Đăng nhận xét