THẦN THOẠI ẤN ĐỘ
Thần thoại Ấn Độ là sáng tác dân gian
truyền miệng của nhiều chủng tộc, nhiều địa phương kế
thừa lẫn nhau trong quá trình phát triển đất nước. Đó là một thế
giới thần thoại kì ảo, được giữ trong các tập sách Veda, Brahmana,
Upanisand, Purana, Phật thoại Budda…
Thần thoại Ấn Độ phát triển qua nhiều thời kỳ.
Trước khi người Arian xâm nhập Ấn Độ thì các
chủng tộc ở đây tôn thờ và ca ngợi thần núi, thần sông, thần cây
cối, thần súc vật, thần rắn (Naga), thần bò mộng (Nandi), thần
cổ thụ (Yatsa)... và ma quỷ yêu tinh khác theo kiểu tô tem.
Đặc biệt họ tín ngưỡng thần Mẹ và thờ cúng âm lực, coi
âm vật – bộ phận sinh dục nữ (Yoni) là nguồn gốc của mọi sáng tạo.
Bên cạnh Yoni, còn thờ dương vật (Linga), giống như người Ai Cập cổ thờ dương
tính Osiris, người Hi Lạp cổ thờ Phallus. Thần Yoni và Linga được tạc bằng đá
hoặc nặn bằng đất sét với hình trụ có chóp tròn (hoặc tháp
nón) đặt trên bệ hình tam giác hoặc hình tròn. Ngày nay trên
đường phố, vườn hoa người ta còn thấy các bức tượng đó. Người Ấn Độ xưa
còn đeo hình Linga ở cổ để trang điểm, khi làm lễ cầu tự, họ trang hoàng lộng
lẫy cho các bức tượng trên, đó là ý niệm về sự sinh tồn. Họ cho rằng sự sinh
sôi nảy nở trong trời đất đều do đực và cái kết hợp với nhau. Đó cũng là quan
niệm duy vật thô sơ nhưng dần dần bị thần bí hoá.
Đến thời kỳ Veda (khoảng 1500 năm
trước CN) khi người Arian vào đất Ấn và hoà hợp
với các chủng tộc khác thì thần thoại phát triển phong phú đa dạng
và có hệ thống hơn.
Tăng lữ Bà la môn bắt đầu chú ý ghi chép lại
những chuyện thần thoại rải rác trong các bộ tộc trong các địa
phương rồi sắp xếp có hệ thống trong bộ kinh Rig Veda.
Đó là những câu ca, bài hát ca ngợi các lực
lượng thiên nhiên mà họ tôn thờ và sùng bái.
Lời hát và cảm xúc của người Arian trong sáng,
hồn nhiên, chân thực và lành mạnh, trí tưởng tượng của họ bay bổng diệu kỳ. Các
thần linh chẳng khác gì con người, họ rất gần gũi và dễ dàng đáp ứng lời
cầu nguyện của con người. Các thần cũng thích đi lang
thang, du mục, cũng chăn bò vắt sữa, yêu nhau và sinh con đẻ cái.
Thần thoại
Ấn Độ là những bức tranh chân thực tuyệt đẹp
miêu tả thiên nhiên nơi người Arian đi qua và sinh sống.
Thần thoại Rig Veda phản ánh
thời thơ ấu Ấn Độ, như Karl Marx nói về Thần Thoại Homer rằng “Nó phản
ánh cái đẹp, phản ánh thời kỳ ấu trĩ một đi không trở lại của loài người”.
Bước sang thời kỳ hậu Veda, chế độ đẳng
cấp ngày càng được cũng cố và phát triển, là quá trình hình thành tôn giáo Bà
la môn và triết học duy tâm thần bí. Do vậy, thần thoại Ấn Độ từ đây
trở nên phức tạp, tối tăm, trừu tượng, huyền bí và ngày càng xa rời cuộc sống
con người.
Lúc đầu, bất cứ vị thần nào trong Rig Veda
cũng có quyền lực như nhau, đều sáng tạo ra của cải vật chất, phục
vụ đời sống con người và được con người ca ngợi, tôn thờ như nhau.
Về sau, người ta qui tất cả quyền lực
của các thần vào một đấng sáng tạo tối cao. Đó là quá trình từ đa thần
giáo (polytheism) chuyển sang nhất thần giáo (monotheism) trong
lịch sử tôn giáo nói chung.
HỆ THỐNG THẦN THOẠI RIG VEDA
Veda do từ gốc là Vid trong tiếng sanskrit có
nghĩa là “hiểu biết”, hiểu biết xâu xa về mọi mặt. Người Ấn Độ cổ xưa quan niệm
rằng khi con người ra đời thì thần thánh ban cho sự hiểu
biết rồi. Sự hiểu biết đó cứ thế mà phát triển liên tục. Người Ấn Độ
rất coi trọng sự hiểu biết, họ có câu châm ngôn sau “Hiểu biết thật sự là
hiểu biết có thể đưa ta tới tự do “
Những hiểu biết có được đều đã sưu tập trong
bộ thần ca Veda. có thể Veda ra đời khoảng từ 1500 đến 1000
năm trước công nguyên.
Thần ca Veda có 4 tập, trong đó tập Rig
Veda mang tính chất văn học đậm đà nhất, chứa đựng nhiều truyện
thần thoại và ra đời sớm nhất.
Rig có
nghĩa là “tụng niệm”. Ba tập sau có các tên là: Sama Veda (ca
vịnh), Giagina Veda (tế tự) và Alhava Veda (phù chú, ma thuật )
Sau đây, chúng ta lần lượt tìm hiểu
một số thần thoại trong RIG VEDA
1.
Nhóm
thần vũ trụ-thiên nhiên
Đầu
tiên là thần Trời và Đất sáng tạo muôn loài.
Trời Cha – Dyaus (người Hi lạp có Zeus hoặc Jupiter).
Đất mẹ – Addidi.
Dyaus và Addidi lấy nhau sinh
ra Aditya – đây là tất cả các loại thần linh.
Các Aditya điều hành mọi sinh hoạt trong trời đất và
vũ trụ, họ ở khắp 3 cõi – trời, không trung và đất. Trời do thần Mặt Trời là
Surya cai quản, không trung do thần Gió Vayu và Đất-hạ giới do thần lửa
Agni cai quản.
Thần Lửa Agni được coi là vị thần quan
trọng có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người cho nên Agni được ca
ngợi rất nhiều. Trong Rig Veda có hơn hai trăm bài ca tụng thần Lửa Agni.
Agni có thân hình màu đỏ và màu vàng, có hai đầu
bảy lưỡi, tay cầm một chiếc rìu, một ngọn đuốc, một cây quạt và một
chuổi hạt. Agni ngồi trên cổ xe do bảy con ngựa hồng kéo. Khói là cờ, gió
là bánh xe. Agni có mặt khắp ba cõi, ở mỗi nơi Agni có hình dạng và nhiệm
vụ khác nhau. Lửa ở hạ giới có sứ mệnh làm trung gian giữa con
người và thần linh. Lửa thiêu đốt lễ vật dâng lên trời. Lửa ở trên trời
giúp cho thần Surya toả ra sức nóng chiếu khắp vạn vật. Lửa ở không
trung giúp thần Indra làm ra sấm sét. Agni được coi là
đấng-thâm-nhập-khắp-nơi, biết được mọi việc, soi sáng khắp nơi, đốt cháy được
tất cả mọi vật, dù sạch sẽ hay vật dơ bẩn. Agni khi hung dữ, lúc dịu
dàng, sẵn sàng cung cấp đồ ăn thức uống cho loài người. Agni được coi
là người bạn tốt nhất “chúa của cải” “người chế tạo và ban phát
thức ăn”. Về sau tôn giáo Bà la môn biến Agni thành thầy cúng-cây cầu nối
Trời và Đất, thần và người trong các buổi hiến tế.
Agni còn tham dự đám cưới, ma chay, lễ
tết, hội hè. Thần chứng kiến lễ cưới: hai vợ chồng trẻ
phải đi bảy vòng quanh đống lửa đốt bằng phân bò khô và đọc 7 lời thề chung
thuỷ.
Thần Agni thiêu huỷ thể xác con người để
hoàn trả lại cho thế giới vật chất cái “ảo ảnh tạm thời”, giúp con
người trở về chốn vĩnh hằng của thần thánh, chết là giải thoát. Thần Lửa là vị
tu sĩ cao nhất ban phúc lành cho người. Thần tiêu diệt mọi thứ uế tạp và theo
dõi đạo đức con người. Hàng năm hai kỳ tết Xuân và Thu (Holy và Divapati), dân
chúng đốt những đống lửa lớn gọi là lửa Holy, thắp nhiều nến để xua đuổi yêu
quái và tội lỗi .
Thần gió Vayu cai quản không trung. Thần là hơi
thở của lửa, sinh khí của vũ trụ, mạch sống của muôn loài.
Thần có sứ mệnh làm trong sạch bầu trời và cùng với lửa chuyển
lễ vật đến thần linh. Vayu và thần Mưa-Sét Indra
có khi hoà làm một cai quản không trung. Đó là vị thần màu
trắng toát, hùng dũng mang cung tên cưỡi xe bằng vàng có
ngựa kéo bay khắp không trung. Ngoài tính chất hùng mạnh,
nhanh nhẹn, sinh động, Vayu còn là vị thần đa tình, chuyên rủ rê ăn
nằm với các vũ nữ thiên thần. Vayu đã ăn nằm với vũ nữ Angiana, đẻ
ra giống khỉ Hanuman-nhân vật có tài thần thông biến hoá, có thuật
phi hành, được miêu tả trong các sử thi Ramayana và Mahabharata .
Thần Surya (mặt trời) cai quản
thiên giới. Surya do chữ Sur hay Svar (tiếng Sanskrit ) có nghĩa
sáng chói (tiếng Anh : sun). Thần gây ra ban ngày, là con mắt của vũ
trụ, tồn tại mãi mãi. Surya có thân hình màu đồng đỏ, tóc và râu
màu vàng, cưỡi xe 7 ngựa hồng kéo rất dữ tợn. Thần đội vương
miện, đeo nhiều vòng toả ánh hào quang chói lọi. Thần đẻ ra
Manu – con người đầu tiên của trần thế. Manu lại đẻ ra Iksuacu – người
sáng lập triều đại Mặt Trời, chàng ta lại sinh ra một trăm con trai.
Trong hệ thống thần vũ trụ – thiên nhiên, còn có các
thần linh khác như thần Varuna (bầu trời), thần Soma (rượu), thần Chandra (mặt
trăng), thần Rudra (bão táp), nữ thần Usa (rạng đông ) ..
2. Nhóm thần sáng tạo thế giới và thuỷ tổ loài
người
Thần thoại Ấn Độ miêu tả một
số mẫu người sáng thế như Toastri (thần Rèn), Burusa (người khổng
lồ), thần Manu (thần Nguyên thuỷ , thủy tổ loài người ) …
Hãy kể về thần Manu.
Manu có nghĩa là « người » (Latin :Humanus,
Anh: Human).
Manu là con của đấng tối cao Brahma. Thần
Brahma tự tách mình ra hai nửa đực, cái hoặc âm và dương. Hai nửa
kết hợp nhau sinh ra Manu .
Manu làm ra bộ luật Manu, theo luật đó mà cai quản thế
giới cổ sơ.
Buổi sáng kia, Manu rửa tay trong dòng nước, bỗng
thấy có con cá bơi tới, Manu bắt lấy – cá nói “Hãy nuôi
ta rồi có ngày ta sẽ cứu sống người. Sắp đến ngày xảy ra nạn
hồng thuỷ, lúc đó ta sẽ cứu người thoát chết “.
Manu bỏ cá nuôi trong chậu.Cá lớn nhanh. Manu
chuyển cá sang thùng, rồi sang hồ, từ hồ chuyển sang sông Hằng, từ
đó ra biển, ca cứ lớn mãi. Theo lời cá, Manu đóng sẵn một con thuyền. Khi
cơn lũ lụt xãy ra, Manu gọi cá và ngồi vào thuyền. Manu buộc thuyền vào
mõm cá. Cá đưa thuyền vượt qua dãy núi HimAllahya đến ngọn núi
cao nhất. Theo lời cá dặn, Manu buộc thuyền vào gốc cây, ngồi chờ nước rút. Sau
khi nước rút, mặt đất trơ trọi, không một sinh vật nào sống sót. Manu
thèm khát có đồng loại bèn cầu nguyện Brahma, một cô gái xuất hiện. Hai người
ăn ở chung chạ, cùng lao động sinh sống và sinh hạ một đứa con trai.
3. Nhóm thần tinh thần – tình cảm – thần tình yêu Kama
Giống như Eros của Hi lạp, Cupidon
của La mã, Kama là thần tình yêu.
Cuộc đời chàng là một trong những truyện thần thoại Ấn
Độ hay nhất. Lúc đầu, Kama
chỉ là một ý niệm về nguồn gốc vũ trụ và
muôn loài. Người Ấn Độ cổ tin rằng sự sinh sôi nảy nở trong trời đất
là do sự phối hợp giữa giống đực ( purusa ) và giống
cái (prakriti). Hai giống ấy có ở khắp nơi và luôn luôn tìm gặp nhau theo
“ý muốn tự nhiên” – tức là Kama .
Đến người Arian, họ quan niệm Kama
là sự vận động đầu tiên của vũ trụ, sau đó chuyển vào cuộc sống,làm phấn chấn
và lôi cuốn muôn loài, muôn vật. Bộ kinh Rig Veda (vệ đà) có đoạn “Kama là
mầm mống của lòng người, của trí tuệ, là sợi dây ràng buộc cái bản thể với cái
không bản thể “. Họ coi Kama là vị thần có tất cả trước mọi loài. Người đời
luôn luôn ước mong Kama đến với
mình. Trong buổi tế lễ, người cầu nguyện: ” Hỡi Kama vị thần có mũi tên
bắn trúng đích. Cánh tên là nỗi sầu muộn, lòng tên là mong mỏi, mũi tên
là dục tình, mong thần hãy xuyên qua trái tim con”.
Kama được miêu tả như một chàng trai tuấn tú ngồi trên
chiếc xe do chim vẹt kéo, cầm chiếc cung, cánh cung làm bằng cây
mía uốn cong, dây cung làm bằng đàn ong mật kết cánh với nhau, mũi tên làm bằng
hoa xoài mềm mại. Chàng có vợ là nàng Rati (có nghĩa là: say đắm) và bạn
chàng là chúa xuân Vasanta, đi theo chàng còn có các chàng trai mục đồng
Gandarva và các vũ nữ Apsara.
Thần Tình yêu được miêu tả như một biểu hiện độc đáo
của nghệ thuật dân gian Ấn Độ. Thiên nhiên gắn liền với
tình cảm con người. Kama trở thành nguồn trữ
tình lai láng, đắm đuối của con người và là lực lượng đáng
kể chống lại lối tu hành khổ hạnh. Các vị thần linh, giáo
sĩ đạo Bà la môn và Hindu, kể cả chúa tể Brahma đã nhiều phen điêu đứng vì
mũi tên của Kama .
Truyện kể rằng: “Taraka là con quỷ có uy lực
ghê gớm khiến cả đấng tối cao Brahma cũng phải kính nể.
Nó bắt thần Brahma truyền cho nó phép trường sinh bất tử. Từ
khi có phép đó nó trở nên kiêu ngạo, khinh rẻ các thần linh. Các thần muốn
tiêu diệt Taraka nhưng biết chắc rằng không có ai ngoài con trai của thần
Siva sinh ra mới đủ sức tiêu diệt nó. Nhưng khốn nỗi Siva theo
chủ nghĩa khổ hạnh, không chịu lấy vợ. Các thần bàn cách làm sao cho Siva cưới
Uma – con gái thần núi Himallahya. Kama nhận
nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Chàng mang “vũ khí”, dẫn đoàn tuỳ tòng và
nàng Uma lên đỉnh núi Kailasa, nơi thần Siva đang ngồi tu luyện.
Uma được trang điểm lộng lẫy, nàng tìm mọi cách khêu
gợi dục tình của Siva, nhưng Siva không mảy may xao động, đôi mắt
vẫn lim dim hướng về thượng đế. Chờ đến khi
nàng Uma có sức quyến rũ và xinh đẹp tuyệt trần, Kama
gương cung bắn thẳng mũi tên vào trái tim Siva. Thần Siva bàng hoàng,
nhức nhối trái tim, vùng đứng dậy, quắc mắt tìm kiếm xem kẻ nào dám
cả gan quấy rối.
Trông thấy Kama, thần mở to con mắt thứ ba trên
trán, phun lửa hừng hực đốt cháy Kama
thành tro. Nhưng trái tim Siva vẫn nhức nhối, ngọn lửa tình trong
người cứ bừng cháy. Siva ẩn nấp vào bóng cây râm mát hòng dập tắt lửa
tình. Vô hiệu, vì xung quanh có nhiều sơn nữ xinh đẹp đang nhìn
Siva khiến cho ngọn lửa càng nóng hơn. Thần chạy trốn xuống hồ
nước, nước hồ lại càng sôi lên khi nàng Uma đứng trên bờ
hồ chờ đón. Cuối cùng Siva nhảy lên bờ. Nàng Uma chạy tới ôm chặt
lấy thần. Lúc ấy Siva mới cảm thấy lòng mình êm dịu. Thế là Siva lấy vợ
và sinh con trai.
Sau khi thần Kama chết
thế giới trở nên khô cằn, lạnh lẽo vì Thần tình yêu không còn nữa.
Thần linh và loài người đều vô cùng lo sợ. Mọi người lập đàn
tế lễ cầu xin Siva cải tử hoàn sinh cho Kama .
Nàng Rati goá bụa, đau khổ tìm nàng Uma năn nỉ cầu xin Siva cho
chồng sống lại. Siva đồng ý cho Kama sống
lại nhưng phải chịu vô hình vô ảnh. Và Kama tồn tại mãi với muôn loài
cho đến ngày nay.
Tết Holy vào dịp mùa xuân được coi là ngày giỗ
thần tình yêu Kama . Tục truyền sau
khi Kama chết. Người đời lấy
tro xác Kama hoà vào nước, nước hoá ra
màu đỏ tía. Từ đó người Ấn Độ xem màu đỏ tía là màu hạnh phúc. Vào dịp
tết Holy, nam nữ thanh niên dùng một thứ bột màu hoặc nước đỏ
tía để xoa lên mặt hoặc vẩy lên quần áo, chúc nhau hạnh phúc. Cô gái nào
đã có chồng thì chấm một chấm đỏ giữa trán, ghi nhận mình đã có hạnh phúc
(nhưng ngày nay thì bất kỳ cô gái nào cũng có thể chấm đỏ nếu
thích). Thanh niên tổ chức nhảy múa, hát ca ngợi Kama
và ca ngợi những mối tình chung thuỷ của chàng hoàng tử Rama và
công chúa Sita, mối tình của chàng Krisna và Rada.
Trong đoàn tuỳ tòng của Kama , còn có
các chàng trai thiên thần mục đồng Gandarva. Đó chính
là hình ảnh thực của những thanh niên thổ dân ở miền Bắc Ấn Độ nơi
có phong cảnh hữu tình, có nhiều rượu ngọt, thích ca hát nhảy múa –
họ sống tự do, chuyên đi tìm bạn gái và kết hôn tự do không theo
phép tắc của gia đình và xã hội. Lối kết hôn đặc biệt đó gọi là tục
Gandarva, về sau nhà nước nô lệ và phong kiến chỉ dành riêng tục kết hôn
Gandarva cho vua chúa.
Các vũ nữ Apsara: apsara có nghĩa là “lượn
trong nước”. Hình tượng này giống như nữ thần Nymph
trong thần thoại HiLạp, Lamã. Hoặc giống các tiên nữ trong thần thoại
Trung Quốc và Việt Nam .
Apsara thường sống trong nước, thích bơi lội múa hát, có hình dáng
rất đẹp. Các cô thường bị các chàng trai Gandarva trêu ghẹo, thu trộm quần áo
khi các cô đang tắm dưới sông hồ. Apsara được coi là thần múa và thần
khêu gợi dục tình.
Hình ảnh và điệu múa Hoan Lạc của Apsara phổ
biến rộng khắp vùng Đông Nam Á. Ở Trung Quốc có điệu múa “Nghê thường vũ y
khúc” bắt nguồn từ điệu múa Apsara. Có người cho rằng các động tác
múa chèo Việt Nam
cũng có thể bắt nguồn từ Apsara.
Trong hệ thống thần tinh thần, tình cảm, còn có
Yama (thần Chết) cũng là một vị thần quan trọng, nhiều quyền lực.
4 – Hệ thống
bộ ba thần tối cao Brahma – Visnu – Siva (gọi chung là :
Trimuty)
4.1 Thần
thoại Brahma
Brahma là đấng tối cao của thần thoại
Bà La Môn. Có nhiều nguồn gốc khác nhau đẻ ra thần Brahma. Brahma
là thuỷ tổ của văn học – nghệ thuật, kiến trúc hội hoạ ca múa nhạc
và ban phát tri thức cho nhân loại.
Brahma được miêu tả có 4 cánh tay, tay thứ nhất
cầm pho sách Veda, tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cung, tay
thứ tư cầm bình nước. Đó là người có bốn đầu, cưỡi con thiên nga.
4.2. Thần
thoại Visnu
“Visnu” do từ gốc là “wish” có nghĩa là tràn lan,
thâm nhập. Visnu là thần bảo vệ. Ngài có tới 24 hình ảnh và hàng chục kiếp
hoá thân khác nhau. Hai hình ảnh thông thường nhất là
Visnu nằm nghỉ trên mình con rắn thần Sesa bồng bềnh trên
mặt biển Ananta vô biên, hoặc Visnu đứng thẳng, 4 tay nắm gữi 4 vật: vỏ ốc, dĩa
tròn, bông sen và cây chuỳ. Thần tích Visnu rất nhiều, đó
là những kiếp hoá thân của ngài.Thường kể về 10 kiếp hoá thân: 5 kiếp vật
cá, rùa, lợn, sư tử và ngựa, và 5 kiếp người: người lùn, dũng sĩ
Parasurama, hoàng tử Rama, anh hùng Krisna và đức Phật Budda.
4.3. Thần thoại Siva
Siva có nghĩa là tốt lành.
Nhưng tính cách thần lại giống như thần Rudra (Bão táp) Indra
(Sấm sét), Marut (Giông tố). Thần Siva vừa ác vừa thiện, có
khi gây nỗi lo sợ cho con người, lúc khác đem lại niềm vui.
Thần có nhiệm vụ phá huỷ và tiêu diệt vạn vật, sinh linh
nhưng sau đó lại hồi phục sự sống và sức khoẻ cho muôn loài.
Hình tượng Siva được miêu tả: da trắng, tượng trương
cho bản chất tinh khiết, ba con mắt chỉ mặt trời, mặt trăng và ngọn
lửa thế gian, có thể nhìn thấu quá khứ, hiện tại và tương lai. Mái tóc rối
tượng trưng thần gió, sông Hằng chảy từ mái tóc xuống. Ngài có
4 cánh tay tượng trưng 4 phương trời, thể hiện chức năng thống trị.
Một tay cầm cây chĩa ba thể hiện ba chức năng: sáng
tạo, huỷ diệt và bảo vệ. Một tay cầm rìu biểu hiện sức mạnh tuyệt
đối, một tay ra hiệu xua đuổi sự sợ hãi và một tay ban phước
lành. Thuộc tính triết học của Siva là phá huỷ nên thần được đồng nhất
với thần thời gian và thần chết.
Một hình tượng khác của Siva cũng khá quen
thuộc. Siva đứng một chân theo điệu múa Tandarva (vũ trụ đại hoà điệu).
Chân phải đạp trên một người lùn, chân trái nâng cao và chéo sang
phải. Siva có 4 cánh tay, tay phải cầm trống, tay trái cầm ngon lửa, tay
phải dưới xoè ra và chĩa lên trời biểu thị một ấn quyết, tay trái dưới đưa chéo
qua phải và bàn tay chĩa xuống đất. Người ta hiểu hình tượng Siva như
sau:
Tiếng trống gióng lên, gọi con người trở về với
tâm linh, ngon lửa là tri thức diệt trừ u tối, dấu ấn quyết là quyền lực
tuyệt đối, chân đè lên người lùn chứng tỏ sức mạnh Siva chế ngự
được tội lỗi. Một con rắn quấn quanh mình Siva tượng trưng cho tri
thức nội tại. Mái tóc tượng trưng sức mạnh và các thứ trang sức
trên tóc là biểu thị các đức tính cao quí.
Thần thoại về Siva còn nhiều, chứng tỏ địa vị có ưu
thế hơn hẳn trong bộ ba Trimurti.
Ba
vị thần tối cao được hiểu là ba thuộc tính của một quá trình. Sáng
tạo – bảo vệ – huỷ diệt diễn ra như một chu kỳ liên tục. Người
ta đã nhất thể hoá vị thần thành một bức tượng một đầu 3 mặt. Hình tượng đó là
kết quả của sự hoà hợp các giáo phái và trở thành truyền thống đấu tranh
cho sự hoà bình hoà hợp giữa các dân tộc.
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA THẦN
THOẠI ẤN ĐỘ
- Tác giả của thần thoại Ấn Độ là
các nghệ sĩ dân gian ở các thời đại.
- Tập sách Rig Veda vừa là bộ kinh Bà
La môn, vừa là tác phẩm thần thoại đặc sắc nhất.
Trước hết nó chứa đựng nhiều yếu tố hiện
thực như những bức tranh sinh hoạt sinh động và chân
thực của người Ấn Độ cổ xưa. Thần thoại phản ánh việc
chăn nuôi, săn bắn trồng trọt, khai phá đất đai, chinh phục
núi non sông hồ.
- Thần thoại Ấn Độ sử dụng thành thạo các
thủ pháp tượng trưng và phóng đại.
Thiên nhiên được đưa vào làm tăng vẻ đẹp và chất trữ
tình cho thần thoại. Núi HimAllahya hùng vĩ, sông Hằng trong xanh, những thảo
nguyên mênh mông, những đàn súc vật tung tăng với ánh mặt trời, cây cỏ
hoa lá đua nhau nở dưới nắng xuân, ánh trăng soi trên hồ nước
lung linh có những con thiên nga vỗ cánh, trên bờ suối con
nai vàng ngơ ngác…
Đặc biệt nghệ thuật nhân cách hoá thể hiện
khiếu thẩm mỹ và trí tưởng tượng thật đáng khâm phục của người Ấn Độ cổ
xưa.
Đề tài của thần thoại Ấn Độ rất phong phú
, bao gồm đủ mọi chuyện đời.
Về hình thức, thần thoại Ấn Độ rất đa dạng. Có thể
thấy mần mống sử thi như các truyện kể về thần Indra, hay hình thức
kịch như cuộc đối đáp giữa hai anh em Yama và Yani, ngoài ra lại có nhiều đoạn
văn xuôi và thơ trữ tình.
Bên cạnh những giá trị lớn lao đó, thần thoại Ấn Độ
cũng có những hạn chế đáng lưu ý. Đó là tư tưởng tôn giáo và triết lý
thần bí chi phối quá mạnh đến thần thoại.Giáo sư Cao Huy Đỉnh trong cuốn “Tìm
hiểu thần thoại Ấn Độ” đã nhận xét: “... mỹ cảm của người Ấn
Độ bị hương khói của tôn giáo che mờ, bị tư biện triết học làm băng giá, bị phù
chú và kinh kệ vùi dập. Chủ nghĩa duy tâm đã dẫn đến nguyên lí mỹ học phản hiện
thực: lí tính siêu thực chỉ đạo cảm tính, cá nhân phải đồng hoá với vũ trụ, sự
hưởng lạc cảm quan đi liền với chủ nghĩa khổ hạnh. Cuộc đời được
miêu tả như trò chơi phù phiếm hay ảo mộng mà thượng đế bày đặt ra để thử
thách con người. Thượng đế là chân thực, trần thế là hư vô. Quan niệm về hiện
thực như thế là bị đảo lộn”.
So sánh thần thoại Ấn Độ và
thần thoại Hy Lạp- La Mã, chúng ta thấy có một số điều khác biệt sau :
Trình độ phát triển tư duy Ấn
Độ thể hiện trong thần thoại Ấn Độ có một độ cao nhất định nhưng bị tôn
giáo thần thánh hoá. Nội dung và lòng yêu cuộc sống, tinh thần đấu tranh bị bóp
méo do đó hạn chế óc duy vật khoa học thực nghiệm, khiếu nhận xét lịch sử và
tính năng động của nhân dân Ấn Độ đã manh nha rõ rệt.
Ngược lại, thần thoại Hi Lạp có giá trị ở chỗ lý tưởng
hoá con người, mô tả những con người đẹp nhất trong
những con người. Hình ảnh Promete người đưa lửa cho loài
người, dũng sĩ Hercules, anh hùng Achille, Ulyse… vẫn là những nhân vật lý
tưởng và ước mơ lành mạnh cao quí của con người. Thần thoại Hy Lạp cũng đề cao
cái đẹp tự nhiên, hiến cho ta những hình ảnh đẹp, năng lực thẩm mỹ và lòng yêu
đời.
Ở Hi Lạp, khi tư tưởng triết học cùng thuyết vũ
trụ học của các triết gia Ionian (thế kỷ VII trước CN) thì thần linh mất dần ảnh
hưởng. Người ta chỉ trích, chế nhạo thần linh cốt để mở đường cho những
tìm tòi sáng tạo khoa học.
Trong
khi đó, ở Ấn Độ thế giới thần linh vãn giữ được uy thế mặc dầu những quan
niệm khá duy vật vè vũ trụ như Atman và Brahman trong kinh
Upanisad. Điều này chứng tỏ tính kém năng động, tâm hồn
trầm tư, mộ đạo của người Ấn đã kìm hãm sự phát triển của nền
văn minh Ấn Độ vốn ban đầu không kém gì nền văn minh Hi
Lạp – La Mã .
KẾT
LUẬN
Thần thoại Ấn Độ phong phú, chan chứa chất trữ tình
và tinh thần nhân đạo sâu sắc – đó là truyền thống bất hủ của văn
học nghệ thuật Ấn Độ. Từ giai đoạn anh hùng ca về sau đến thế kỷ XX, các
thế hệ văn nghệ sĩ Ấn Độ luôn luôn lấy đề tài thần thoại và
mượn nó làm phương tiện miêu tả. Các nhà thơ lớn như Kalidasa
ở thế kỷ thứ V, Kabia ở thế kỷ XV-XVI,Tunxidat ở thế kỷ XVI-XVII, R.Tagore
(1861-1941)…đã vận dụng thần thoại để miêu tả và đề cao cuộc sống tình
yêu, đất nước giàu đẹp và nhân dân lao động nghèo khổ của mình, sáng
tạo ra nhiều tác phẩm văn học xuất sắc.
Trái lại, thứ văn học tôn giáo ngày càng mờ nhạt và bị
lãng quên trong thế giới huyền bí, hư vô.
Thần thoại Ấn Độ cũng có ảnh hưởng đến Việt Nam .
Câu chuyện “Dạ thoa vương” trong cuốn “Lĩnh nam chích quái” chịu ảnh hưởng motip quỉ vương Ravana của thần
thoại Ấn Độ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét