Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

THẦN THOẠI ẤN ĐỘ



THẦN THOẠI  ẤN  ĐỘ
Thần thoại Ấn Độ  là sáng tác dân gian truyền miệng của nhiều chủng tộc, nhiều địa phương  kế thừa  lẫn nhau trong quá trình phát triển đất nước. Đó là một thế giới thần  thoại kì ảo, được giữ trong các tập sách Veda, Brahmana, Upanisand, Purana, Phật thoại Budda…
Thần thoại Ấn Độ phát triển qua nhiều thời kỳ.
Trước khi người Arian xâm nhập Ấn Độ thì các chủng tộc ở đây tôn thờ và ca ngợi thần núi,  thần sông,  thần cây cối,  thần súc vật, thần rắn (Naga), thần bò  mộng (Nandi), thần cổ  thụ (Yatsa)... và ma quỷ yêu tinh khác theo kiểu tô tem.
Đặc biệt họ tín ngưỡng thần Mẹ và thờ cúng âm lực, coi âm vật – bộ phận sinh dục nữ (Yoni)  là nguồn gốc của mọi sáng tạo. Bên cạnh Yoni, còn thờ dương vật (Linga), giống như người Ai Cập cổ thờ dương tính Osiris, người Hi Lạp cổ thờ Phallus. Thần Yoni và Linga được tạc bằng đá hoặc  nặn bằng đất sét với hình trụ có chóp tròn (hoặc tháp nón) đặt trên  bệ hình  tam giác hoặc hình tròn. Ngày nay trên đường phố, vườn hoa người ta còn thấy các bức tượng đó. Người Ấn  Độ xưa còn đeo hình  Linga ở cổ để trang điểm, khi làm lễ cầu tự, họ trang hoàng lộng lẫy cho các bức tượng trên, đó là ý niệm về sự sinh tồn. Họ cho rằng sự sinh sôi nảy nở trong trời đất đều do đực và cái kết hợp với nhau. Đó cũng là quan niệm duy vật thô sơ nhưng dần dần bị thần bí hoá.
Đến thời kỳ Veda (khoảng 1500  năm trước CN) khi người Arian vào đất  Ấn  và hoà  hợp với  các chủng  tộc khác thì thần thoại phát triển phong phú đa dạng và có hệ thống hơn.
Tăng lữ Bà la môn bắt đầu chú ý ghi chép lại những chuyện thần thoại rải rác trong các bộ tộc trong các  địa phương rồi sắp xếp có hệ thống trong bộ kinh Rig Veda.
Đó là những câu ca,  bài hát ca ngợi các lực lượng thiên nhiên mà họ tôn thờ và sùng bái.
Lời hát và cảm xúc của người Arian trong sáng,  hồn nhiên, chân thực và lành mạnh, trí tưởng tượng của họ bay bổng diệu kỳ. Các thần linh chẳng khác gì con người, họ rất gần gũi và dễ dàng đáp ứng lời cầu nguyện của con người. Các thần cũng thích đi lang thang, du mục, cũng chăn bò vắt sữa, yêu nhau và sinh con đẻ cái.
Thần thoại Ấn Độ là những bức tranh chân thực tuyệt đẹp miêu tả thiên nhiên nơi người Arian đi qua và sinh sống.
Thần thoại  Rig Veda  phản  ánh thời  thơ ấu Ấn Độ, như Karl Marx nói về Thần Thoại Homer rằng “Nó phản ánh cái đẹp, phản ánh thời kỳ ấu trĩ một đi không trở lại của loài người”.
Bước sang thời kỳ  hậu Veda, chế độ đẳng  cấp ngày càng được cũng cố và phát triển, là quá trình hình thành tôn giáo Bà la môn và triết học duy tâm thần bí. Do vậy, thần thoại Ấn  Độ từ đây trở nên phức tạp, tối tăm, trừu tượng, huyền bí và ngày càng xa rời cuộc sống con người.
Lúc đầu, bất cứ vị thần nào trong Rig Veda cũng có quyền lực như nhau, đều sáng tạo ra của cải vật chất,  phục vụ đời sống con người và được con người ca ngợi, tôn thờ như nhau.
Về sau, người ta qui tất  cả quyền lực  của các thần vào một đấng sáng tạo tối cao.  Đó là quá trình từ đa thần giáo (polytheism) chuyển sang nhất thần giáo (monotheism)  trong lịch sử tôn giáo nói chung.
HỆ  THỐNG THẦN THOẠI  RIG VEDA
Veda do từ gốc là Vid trong tiếng  sanskrit có nghĩa là “hiểu biết”, hiểu biết xâu xa về mọi mặt. Người Ấn Độ cổ xưa quan niệm rằng khi con người ra đời thì thần thánh ban  cho sự hiểu biết rồi. Sự hiểu biết đó cứ thế  mà phát triển liên tục. Người Ấn Độ rất coi trọng sự hiểu biết, họ có câu châm  ngôn sau “Hiểu biết thật sự là hiểu biết có thể đưa ta tới tự do “
Những hiểu biết có được đều đã sưu tập trong bộ  thần ca Veda. có thể Veda ra đời khoảng  từ 1500 đến 1000 năm  trước công nguyên.
Thần ca Veda có 4 tập, trong đó tập Rig Veda mang tính chất văn học đậm đà nhất, chứa đựng nhiều  truyện thần thoại và ra đời sớm nhất.
Rig có nghĩa là “tụng niệm”. Ba tập sau  có các tên  là: Sama Veda (ca vịnh), Giagina Veda (tế tự) và Alhava Veda (phù chú, ma thuật )
Sau đây, chúng  ta lần  lượt tìm  hiểu một  số thần thoại trong  RIG VEDA
1.      Nhóm thần vũ trụ-thiên nhiên
Đầu tiên là thần Trời và Đất sáng tạo muôn loài.
Trời Cha – Dyaus (người Hi lạp có Zeus hoặc Jupiter).
Đất mẹ – Addidi.
Dyaus và Addidi lấy  nhau  sinh  ra  Aditya – đây là  tất cả các  loại thần linh.
Các Aditya điều hành mọi sinh hoạt trong trời đất và vũ trụ, họ ở khắp 3 cõi – trời, không trung và đất. Trời do thần Mặt Trời là Surya cai quản, không trung do thần Gió Vayu và Đất-hạ giới do thần lửa Agni cai quản.
Thần Lửa Agni được coi là vị  thần quan trọng  có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người cho  nên Agni được ca ngợi  rất nhiều. Trong Rig Veda có hơn hai trăm bài ca tụng thần Lửa Agni.
Agni có thân hình màu đỏ và màu vàng, có hai đầu bảy lưỡi, tay cầm một chiếc rìu, một ngọn đuốc, một cây quạt và một chuổi hạt. Agni ngồi trên cổ xe do bảy con ngựa hồng kéo. Khói là cờ, gió là bánh xe. Agni có mặt khắp ba cõi, ở mỗi nơi Agni có hình dạng và nhiệm vụ khác nhau. Lửa ở hạ  giới có sứ  mệnh làm trung gian giữa con người và thần linh. Lửa thiêu đốt lễ vật  dâng lên trời. Lửa ở trên trời giúp cho  thần Surya toả ra sức  nóng chiếu khắp vạn vật. Lửa ở không trung  giúp thần Indra làm ra  sấm sét. Agni được coi là đấng-thâm-nhập-khắp-nơi, biết được mọi việc, soi sáng khắp nơi, đốt cháy được tất cả mọi vật, dù sạch sẽ hay vật dơ bẩn. Agni khi hung dữ,  lúc dịu dàng,  sẵn sàng cung cấp đồ ăn thức uống cho loài người. Agni được coi là người bạn tốt  nhất “chúa của cải” “người chế  tạo và ban phát thức ăn”.  Về sau tôn giáo Bà la môn biến Agni thành thầy cúng-cây cầu nối Trời và Đất, thần và người trong các buổi hiến tế.
Agni còn tham dự đám cưới, ma chay, lễ tết, hội hè. Thần chứng kiến lễ cưới: hai vợ chồng trẻ  phải đi bảy vòng quanh đống lửa đốt bằng phân bò khô và đọc 7 lời thề chung thuỷ.
Thần Agni thiêu huỷ thể xác con  người để hoàn  trả lại cho thế giới vật chất cái “ảo ảnh tạm thời”, giúp con người trở về chốn vĩnh hằng của thần thánh, chết là giải thoát. Thần Lửa là vị tu sĩ cao nhất ban phúc lành cho người. Thần tiêu diệt mọi thứ uế tạp và theo dõi đạo đức con người. Hàng năm hai kỳ tết Xuân và Thu (Holy và Divapati), dân chúng đốt những đống lửa lớn gọi là lửa Holy, thắp nhiều nến để xua đuổi yêu quái và tội lỗi .
Thần gió Vayu cai quản không  trung. Thần là hơi thở của lửa, sinh khí của vũ trụ, mạch sống  của muôn loài. Thần có sứ mệnh làm trong sạch bầu trời  và cùng với  lửa chuyển lễ  vật đến thần linh. Vayu và thần  Mưa-Sét  Indra  có  khi  hoà làm một cai quản không trung. Đó là vị thần màu trắng  toát, hùng dũng mang cung tên cưỡi xe bằng  vàng có  ngựa kéo  bay khắp  không trung. Ngoài tính chất hùng mạnh,  nhanh nhẹn,  sinh động, Vayu còn là vị thần đa tình, chuyên rủ rê  ăn nằm với các vũ nữ thiên thần. Vayu đã ăn nằm với vũ nữ Angiana, đẻ ra giống khỉ Hanuman-nhân  vật có tài thần thông biến hoá, có thuật phi hành,  được miêu tả trong các sử thi Ramayana  Mahabharata .
Thần Surya (mặt  trời)  cai  quản thiên  giới. Surya do chữ Sur hay Svar (tiếng Sanskrit ) có nghĩa sáng  chói (tiếng Anh : sun). Thần gây ra ban ngày, là con mắt của vũ trụ,  tồn tại mãi mãi. Surya có thân hình màu đồng đỏ,  tóc và râu màu vàng,  cưỡi xe 7 ngựa hồng kéo rất  dữ tợn. Thần đội  vương miện,   đeo nhiều vòng toả ánh hào quang chói lọi. Thần đẻ ra  Manu – con người đầu tiên của trần thế. Manu lại đẻ ra Iksuacu – người sáng  lập triều đại Mặt Trời, chàng ta lại sinh ra một trăm con trai.
Trong hệ thống thần vũ trụ – thiên nhiên, còn có các thần linh khác như thần Varuna (bầu trời), thần Soma (rượu), thần Chandra (mặt trăng), thần Rudra (bão táp), nữ thần Usa (rạng đông ) ..
2.  Nhóm thần sáng tạo thế giới và thuỷ tổ loài người
Thần thoại Ấn Độ  miêu  tả  một  số  mẫu người sáng thế như Toastri (thần Rèn),  Burusa (người khổng lồ),  thần Manu (thần Nguyên thuỷ , thủy tổ loài người ) …
Hãy kể về thần Manu.
Manu có nghĩa là « người » (Latin :Humanus, Anh: Human).
Manu là con của đấng tối cao  Brahma. Thần  Brahma tự tách mình ra hai nửa đực,   cái hoặc âm và dương. Hai nửa kết hợp nhau sinh ra Manu .
Manu làm ra bộ luật Manu, theo luật đó mà cai quản thế giới cổ sơ.
Buổi sáng kia, Manu rửa tay trong dòng nước, bỗng thấy có con cá bơi tới, Manu bắt lấy – cá nói  “Hãy nuôi ta  rồi có ngày ta sẽ cứu sống người. Sắp đến ngày xảy ra nạn hồng thuỷ, lúc đó ta sẽ cứu người thoát chết “.
Manu bỏ cá nuôi trong chậu.Cá lớn nhanh. Manu chuyển cá sang thùng, rồi sang hồ,  từ hồ chuyển sang sông Hằng,  từ đó ra biển, ca cứ lớn mãi. Theo lời cá, Manu đóng sẵn một con thuyền. Khi cơn lũ lụt xãy ra,  Manu gọi cá và ngồi vào thuyền. Manu buộc thuyền vào mõm cá. Cá đưa thuyền vượt  qua dãy núi  HimAllahya đến ngọn núi cao nhất. Theo lời cá dặn, Manu buộc thuyền vào gốc cây, ngồi chờ nước rút. Sau khi nước rút,  mặt đất trơ trọi, không một sinh vật nào sống sót. Manu thèm khát có đồng loại bèn cầu nguyện Brahma, một cô gái xuất hiện. Hai người ăn ở chung chạ, cùng lao động sinh sống và sinh hạ một đứa con trai.
3. Nhóm thần tinh thần – tình cảm – thần tình yêu Kama
Giống như Eros của  Hi  lạp, Cupidon của  La mã, Kama là thần tình yêu. Cuộc  đời chàng là  một  trong những truyện thần thoại Ấn Độ  hay nhất.  Lúc đầu, Kama  chỉ  là  một  ý  niệm  về  nguồn gốc vũ trụ và muôn loài. Người Ấn Độ cổ tin rằng sự sinh sôi  nảy nở trong trời đất là do  sự phối hợp giữa  giống đực  ( purusa ) và  giống cái (prakriti). Hai giống ấy có ở khắp nơi  và luôn luôn tìm gặp nhau theo “ý muốn tự nhiên” – tức là Kama.
Đến người Arian,  họ quan niệm Kama là sự vận động đầu tiên của vũ trụ, sau đó chuyển vào cuộc sống,làm phấn chấn và lôi cuốn muôn loài, muôn vật. Bộ kinh  Rig Veda (vệ đà) có  đoạn “Kama là mầm mống của lòng người, của trí tuệ, là sợi dây ràng buộc cái bản thể với cái không bản thể “. Họ coi Kama là vị thần có tất cả trước mọi loài. Người đời luôn  luôn ước mong Kama đến  với mình. Trong buổi tế lễ,  người cầu nguyện: ” Hỡi Kama  vị thần có mũi tên bắn trúng đích. Cánh tên là nỗi sầu  muộn, lòng tên là mong mỏi, mũi tên là dục tình, mong thần hãy xuyên qua trái tim con.
Kama được miêu tả như một chàng trai tuấn tú ngồi trên chiếc xe do chim vẹt kéo, cầm chiếc cung,  cánh  cung làm bằng cây mía uốn cong, dây cung làm bằng đàn ong mật kết cánh với nhau, mũi tên làm bằng hoa xoài mềm mại. Chàng có vợ là nàng Rati  (có nghĩa là: say đắm) và bạn chàng là chúa xuân Vasanta, đi theo chàng còn có các chàng trai mục đồng Gandarva và các vũ nữ Apsara.
Thần Tình yêu được miêu tả như một biểu hiện độc đáo của nghệ thuật dân gian Ấn Độ. Thiên nhiên  gắn liền  với tình cảm con người. Kama trở thành nguồn trữ tình lai láng, đắm đuối của con người và là lực lượng đáng kể chống lại lối tu hành khổ hạnh. Các vị thần linh, giáo sĩ đạo Bà la môn và Hindu, kể cả chúa tể Brahma đã nhiều phen điêu đứng vì mũi tên của Kama.
Truyện kể rằng: “Taraka là  con quỷ có  uy lực ghê  gớm khiến cả đấng tối cao Brahma cũng phải  kính nể. Nó bắt thần Brahma truyền cho nó phép trường  sinh bất tử. Từ khi có phép đó nó trở nên kiêu ngạo, khinh rẻ các thần linh. Các thần muốn tiêu diệt Taraka nhưng biết chắc rằng  không có ai ngoài con trai của thần Siva sinh ra mới đủ sức tiêu  diệt nó. Nhưng khốn nỗi Siva theo chủ nghĩa khổ hạnh, không chịu lấy vợ. Các thần bàn cách làm sao cho Siva cưới Uma – con gái thần núi Himallahya. Kama nhận nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Chàng mang “vũ khí”, dẫn  đoàn tuỳ tòng và nàng Uma lên đỉnh núi Kailasa, nơi thần Siva đang ngồi tu luyện.
Uma được trang điểm lộng lẫy, nàng tìm mọi cách khêu gợi dục tình của Siva,   nhưng Siva không mảy may xao động, đôi mắt vẫn lim dim hướng  về  thượng  đế.  Chờ  đến  khi nàng Uma có sức quyến rũ và xinh đẹp tuyệt trần,  Kama gương  cung bắn thẳng mũi tên vào trái tim Siva. Thần Siva bàng hoàng, nhức  nhối trái tim, vùng đứng dậy, quắc mắt tìm kiếm xem kẻ  nào dám cả gan quấy rối.
Trông thấy Kama, thần mở to con mắt thứ ba trên trán,  phun lửa hừng hực đốt cháy Kama  thành tro. Nhưng trái tim Siva vẫn nhức nhối, ngọn lửa tình  trong người cứ  bừng cháy. Siva ẩn nấp vào bóng cây râm mát hòng dập tắt lửa  tình. Vô hiệu, vì  xung quanh có nhiều sơn nữ xinh đẹp đang nhìn  Siva khiến cho ngọn lửa càng nóng hơn. Thần chạy trốn xuống hồ nước, nước hồ lại càng sôi lên khi nàng  Uma đứng  trên bờ  hồ chờ  đón. Cuối  cùng Siva nhảy lên bờ. Nàng Uma chạy tới ôm chặt lấy  thần. Lúc ấy Siva mới cảm thấy lòng mình êm dịu. Thế là Siva lấy vợ và sinh con trai.
Sau khi thần Kama chết thế giới trở nên khô cằn, lạnh lẽo vì Thần tình yêu không còn  nữa. Thần  linh và  loài người đều vô cùng lo sợ. Mọi người lập  đàn tế  lễ cầu xin Siva cải tử hoàn sinh cho Kama. Nàng Rati goá bụa, đau khổ tìm nàng Uma  năn nỉ cầu xin Siva cho chồng sống lại. Siva đồng ý cho Kama sống lại nhưng phải chịu vô hình vô ảnh. Và Kama tồn tại mãi với muôn loài cho đến ngày nay.
Tết Holy vào dịp mùa xuân được coi  là ngày giỗ thần tình yêu Kama. Tục truyền  sau khi  Kama chết.  Người đời  lấy tro xác Kama hoà vào nước, nước  hoá ra màu đỏ tía. Từ đó người Ấn  Độ xem màu đỏ tía là màu hạnh phúc. Vào dịp tết Holy, nam nữ thanh niên dùng một thứ bột màu  hoặc nước đỏ  tía để xoa  lên mặt hoặc vẩy lên quần áo, chúc nhau hạnh phúc. Cô gái nào đã có chồng thì chấm một chấm đỏ giữa trán,  ghi nhận mình đã có hạnh phúc (nhưng ngày nay thì bất kỳ cô  gái nào cũng  có thể chấm  đỏ nếu thích). Thanh niên tổ chức nhảy múa, hát ca ngợi Kama và ca ngợi  những mối tình chung thuỷ của chàng hoàng tử Rama và  công chúa Sita, mối tình của chàng Krisna và Rada.
Trong đoàn tuỳ tòng của Kama, còn có các chàng trai thiên thần mục đồng Gandarva. Đó chính  là  hình ảnh thực của những thanh niên thổ dân ở miền Bắc Ấn Độ nơi có  phong cảnh hữu tình, có nhiều  rượu ngọt, thích ca hát nhảy múa – họ sống tự do, chuyên đi tìm bạn gái và kết hôn tự do không theo  phép tắc của gia đình và xã hội. Lối kết  hôn đặc biệt đó gọi  là tục Gandarva, về sau nhà nước nô lệ và phong kiến chỉ dành riêng tục kết hôn Gandarva cho vua chúa.
Các vũ nữ Apsara: apsara  có nghĩa là “lượn trong  nước”. Hình tượng này  giống như  nữ thần  Nymph trong thần thoại HiLạp, Lamã. Hoặc giống các tiên nữ trong thần  thoại Trung Quốc và Việt Nam. Apsara thường sống trong nước, thích bơi lội múa hát, có hình dáng rất đẹp. Các cô thường bị các chàng trai Gandarva trêu ghẹo, thu trộm quần áo khi các cô đang tắm dưới sông hồ. Apsara được coi là thần múa và thần khêu gợi dục tình.
Hình ảnh và điệu múa Hoan Lạc của Apsara phổ  biến rộng khắp vùng Đông Nam Á. Ở Trung Quốc có điệu múa “Nghê thường vũ y khúc” bắt nguồn từ điệu múa Apsara. Có người cho rằng  các động tác múa chèo Việt Nam cũng có thể bắt nguồn từ Apsara.
Trong hệ thống thần tinh thần, tình  cảm, còn có Yama (thần Chết) cũng là một vị thần quan trọng, nhiều quyền lực.
4 – Hệ thống bộ  ba thần  tối cao Brahma  – Visnu – Siva (gọi chung là : Trimuty)
4.1 Thần thoại Brahma
Brahma là đấng tối cao của thần  thoại Bà La Môn. Có nhiều nguồn gốc khác nhau đẻ ra thần  Brahma. Brahma là thuỷ tổ của văn học – nghệ thuật, kiến trúc hội hoạ ca  múa nhạc và ban phát tri thức cho nhân loại.
Brahma được miêu tả có 4 cánh tay,  tay thứ nhất cầm pho sách Veda, tay thứ hai cầm trượng,  tay thứ ba cầm cung,  tay thứ tư cầm bình nước. Đó là người có bốn đầu, cưỡi con thiên nga.
4.2. Thần thoại  Visnu
“Visnu” do từ gốc là “wish” có nghĩa là tràn lan, thâm nhập. Visnu là thần bảo vệ. Ngài có tới 24 hình ảnh và hàng chục kiếp hoá thân khác nhau. Hai hình ảnh thông thường nhất là Visnu nằm nghỉ  trên mình con rắn thần Sesa bồng bềnh trên mặt biển Ananta vô biên, hoặc Visnu đứng thẳng, 4 tay nắm gữi 4 vật: vỏ ốc, dĩa tròn, bông sen và cây chuỳ. Thần tích Visnu rất nhiều, đó là những kiếp hoá thân của ngài.Thường kể về 10 kiếp hoá thân: 5 kiếp vật cá, rùa, lợn, sư tử và ngựa, và 5 kiếp người: người lùn, dũng sĩ Parasurama,  hoàng tử Rama, anh hùng Krisna và đức Phật Budda.
4.3. Thần thoại Siva
Siva có  nghĩa  là  tốt  lành. Nhưng  tính cách thần lại giống như thần Rudra (Bão táp)   Indra (Sấm sét),   Marut (Giông tố). Thần Siva vừa ác vừa thiện,  có khi gây nỗi lo sợ cho con người, lúc khác  đem lại  niềm vui.  Thần có  nhiệm vụ phá huỷ và tiêu diệt vạn vật,   sinh linh nhưng sau đó lại  hồi phục sự sống và sức khoẻ cho muôn loài.
Hình tượng Siva được miêu tả: da trắng, tượng trương cho bản chất tinh khiết, ba con mắt chỉ mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa thế gian, có thể nhìn thấu quá khứ, hiện tại và tương lai. Mái tóc rối tượng  trưng thần gió, sông Hằng chảy từ  mái tóc xuống. Ngài có 4 cánh  tay tượng trưng 4 phương trời, thể hiện chức năng thống trị. Một  tay cầm  cây chĩa  ba thể  hiện ba chức năng: sáng tạo, huỷ diệt và bảo  vệ. Một tay cầm rìu  biểu hiện sức mạnh tuyệt đối, một tay ra  hiệu xua đuổi sự sợ  hãi và một  tay ban phước lành. Thuộc tính triết học của  Siva là phá huỷ nên thần được đồng nhất với thần thời gian và thần chết.
Một hình tượng khác của Siva cũng  khá quen thuộc. Siva đứng một chân theo điệu múa Tandarva (vũ trụ  đại hoà điệu). Chân phải đạp trên một  người lùn, chân trái nâng cao và chéo sang phải. Siva có 4 cánh tay, tay phải cầm trống,  tay trái cầm ngon lửa, tay phải dưới xoè ra và chĩa lên trời biểu thị một ấn quyết, tay trái dưới đưa chéo qua phải và bàn tay chĩa xuống đất. Người ta hiểu hình tượng Siva như sau:  
Tiếng trống  gióng lên, gọi con người trở về với tâm linh, ngon lửa là tri thức diệt trừ u tối, dấu ấn quyết là quyền lực tuyệt đối, chân đè lên người lùn chứng tỏ sức mạnh  Siva chế  ngự được  tội lỗi.  Một con rắn quấn quanh mình Siva tượng trưng cho tri thức  nội tại. Mái  tóc tượng trưng sức mạnh và các thứ trang sức trên tóc là biểu thị các đức tính cao quí.
Thần thoại về Siva còn nhiều, chứng tỏ địa vị có ưu thế hơn hẳn trong bộ ba Trimurti.
Ba vị thần tối cao được hiểu là ba thuộc tính của một quá trình. Sáng tạo – bảo vệ – huỷ  diệt diễn ra như  một chu kỳ liên tục. Người ta đã nhất thể hoá vị thần thành một bức tượng một đầu 3 mặt. Hình tượng đó là kết quả của sự hoà  hợp các giáo phái và trở thành truyền thống đấu tranh cho sự hoà bình hoà hợp giữa các dân tộc.
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ  CỦA THẦN THOẠI  ẤN ĐỘ
- Tác giả của thần  thoại Ấn Độ  là  các nghệ sĩ dân  gian ở các thời đại.
- Tập sách Rig Veda  vừa là bộ  kinh Bà La  môn,  vừa  là tác phẩm thần thoại đặc sắc nhất.
Trước hết nó chứa đựng  nhiều yếu tố hiện thực  như những bức tranh sinh  hoạt sinh  động và  chân thực  của người Ấn Độ  cổ xưa. Thần thoại  phản ánh  việc chăn  nuôi,   săn bắn trồng trọt, khai phá đất đai, chinh phục núi non sông hồ.
- Thần thoại Ấn Độ sử dụng thành  thạo các thủ  pháp tượng trưng và phóng đại.
Thiên nhiên được đưa vào làm tăng vẻ đẹp và chất trữ tình cho thần thoại. Núi HimAllahya hùng vĩ, sông Hằng trong xanh, những thảo nguyên mênh mông, những đàn súc vật tung  tăng với ánh mặt trời, cây cỏ hoa lá đua  nhau nở dưới nắng  xuân, ánh trăng soi trên hồ nước lung linh có những con thiên  nga vỗ cánh,   trên bờ suối con nai vàng ngơ ngác…
Đặc biệt nghệ thuật nhân cách hoá  thể hiện khiếu  thẩm mỹ và trí tưởng tượng thật đáng khâm phục của người Ấn Độ cổ xưa.
Đề tài của thần thoại Ấn  Độ rất phong  phú , bao gồm đủ mọi chuyện đời.
Về hình thức, thần thoại Ấn Độ rất đa dạng. Có thể thấy mần mống sử thi như các truyện kể về  thần Indra, hay hình thức kịch như cuộc đối đáp giữa hai anh em Yama và Yani, ngoài ra lại có nhiều đoạn văn xuôi và thơ trữ tình.
Bên cạnh những giá trị lớn lao đó, thần thoại Ấn Độ cũng có những hạn chế đáng lưu ý. Đó là tư  tưởng tôn giáo và triết lý thần bí chi phối quá mạnh đến thần thoại.Giáo sư Cao Huy Đỉnh trong cuốn “Tìm hiểu thần  thoại Ấn  Độ” đã nhận xét: “... mỹ cảm của người Ấn Độ bị hương khói của tôn giáo che mờ, bị tư biện triết học làm băng giá, bị phù chú và kinh kệ vùi dập. Chủ nghĩa duy tâm đã dẫn đến nguyên lí mỹ học phản hiện thực: lí tính siêu thực chỉ đạo cảm tính, cá nhân phải đồng hoá với vũ trụ, sự hưởng lạc cảm quan đi liền với chủ  nghĩa khổ hạnh. Cuộc đời  được miêu tả như trò chơi phù phiếm hay ảo mộng mà  thượng đế bày đặt ra để thử thách con người. Thượng đế là chân thực, trần thế là hư vô. Quan niệm về hiện thực như thế là bị đảo lộn”.
So sánh  thần thoại  Ấn  Độ  và thần  thoại Hy Lạp- La Mã, chúng ta thấy có một số điều khác biệt sau :
Trình  độ phát  triển tư  duy Ấn  Độ thể hiện trong thần thoại Ấn Độ có một độ cao nhất định nhưng  bị tôn giáo thần thánh hoá. Nội dung và lòng yêu cuộc sống, tinh thần đấu tranh bị bóp méo do đó hạn chế óc duy vật khoa học thực nghiệm, khiếu nhận xét lịch sử và tính năng động của nhân dân Ấn  Độ đã manh nha rõ rệt.
Ngược lại, thần thoại Hi Lạp có giá trị ở chỗ lý tưởng hoá con người,  mô tả  những con  người đẹp  nhất trong những con người. Hình ảnh Promete  người đưa  lửa cho loài  người, dũng sĩ Hercules, anh hùng Achille, Ulyse… vẫn là những nhân vật lý tưởng và ước mơ lành mạnh cao quí của con người. Thần thoại Hy Lạp cũng đề cao cái đẹp tự nhiên, hiến cho ta những hình ảnh đẹp, năng lực thẩm mỹ và lòng yêu đời.
Ở Hi Lạp,  khi tư tưởng triết học cùng thuyết vũ trụ học của các triết gia Ionian (thế kỷ VII trước CN) thì thần linh mất dần ảnh hưởng. Người ta chỉ trích,  chế nhạo thần linh cốt để mở đường cho những tìm tòi sáng tạo khoa học.
Trong khi đó, ở Ấn  Độ thế giới thần linh vãn giữ được uy thế mặc dầu những quan niệm khá duy vật vè vũ trụ như Atman và Brahman trong kinh  Upanisad.  Điều  này  chứng  tỏ tính kém năng động, tâm hồn trầm tư,  mộ đạo của  người Ấn đã kìm hãm  sự phát triển của nền văn  minh Ấn  Độ vốn  ban đầu  không kém gì nền văn minh Hi Lạp – La Mã .
KẾT LUẬN
Thần thoại Ấn  Độ phong phú, chan chứa chất trữ tình và tinh thần nhân đạo sâu sắc – đó là  truyền thống bất hủ của văn học nghệ thuật Ấn  Độ. Từ giai đoạn anh hùng ca về sau đến thế kỷ XX, các thế hệ văn nghệ sĩ Ấn Độ luôn luôn  lấy đề tài  thần thoại và mượn nó  làm phương  tiện miêu  tả. Các nhà thơ lớn như Kalidasa ở thế kỷ thứ V, Kabia ở thế kỷ XV-XVI,Tunxidat ở thế kỷ XVI-XVII, R.Tagore (1861-1941)…đã vận dụng thần thoại để miêu tả và đề cao cuộc sống tình yêu, đất nước giàu đẹp và nhân dân lao động nghèo khổ của mình, sáng tạo ra nhiều tác phẩm văn học xuất sắc.
Trái lại, thứ văn học tôn giáo ngày càng mờ nhạt và bị lãng quên trong thế giới huyền bí, hư vô.
Thần thoại Ấn Độ cũng có ảnh hưởng đến Việt Nam. Câu chuyện “Dạ thoa vương” trong cuốn “Lĩnh nam chích quái” chịu ảnh hưởng motip  quỉ vương Ravana của thần thoại Ấn Độ.

Không có nhận xét nào: