Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

LOẠI THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC


LOẠI THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
                   I.             KHÁI NIỆM
                II.             SỰ PHÂN LOẠI THỂ VĂN CHƯƠNG
                                  1.                 Ở phương Tây
                                  2.                 Ở Trung Quốc
                                  3.                 Ở Việt Nam
             III.             MỘT SỐ TIÊU CHÍ PHÂN CHIA THỂ LOẠI TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG
                                  1.                 Dựa vào hình thức câu văn
                                  2.                 Dựa vào thể văn hình thức lời văn  được mô tả theo một thể thức nào đó
                                  3.                 Dựa vào dung lượng tác phẩm
                                  4.                 Dựa vào cảm hứng, tính điệu thẩm mĩ có thể phân ra.
                                      -----------------------------------------------------
1. KHÁI NIỆM
Mọi tác phẩm văn học đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất định: một cuốn tiểu thuyết, một truyện ngắn, một bài thơ, một vở kịch, một kí sự...Không có tác phẩm văn học nào được xây dựng ngoài những hình thức quen thuộc đó. Vì vậy, bên cạnh nhan đề tác phẩm, tác giả thường ghi tên thể loại: Những người khốn khổ- tiểu thuyết; Dấu chân người lính- Tiểu thuyết;  truyện ngắn của Guy de Maupassant; Từ ấy - thơ; Bài thơ Màu tím hoa sim; Lão hà tiện- kịch...Nhiều khi tên thể loại gắn liền với nhan đề tác phẩm: Hoàng lê nhất thống chí, Bình Ngô đại cáo, Tam quốc chí diễn nghĩa, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giụôc.
    Ðiều gì dã tạo nên sự giống nhau về hình thức tồn tại của tác phẩm văn học trong khi nội dung nhiều khi rất khác nhau đó ? Chính là qui luật loại hình tác phẩm, tức là sự tổng hợp các phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống của những đặc trưng cơ bản gần gũi với nhau.
Mỗi loại truyện; thơ; kí; kịch đều có các phương thức tổ chức, phương thức tái hiện gần gũi với nhau và từ đó qui định sự tiếp nhận văn học. Nhà văn cũng như người đọc đều hiểu mình sáng tác hay tiếp nhận loại tác phẩm này chứ không phải loại tác phẩm khác. Lí luận văn học đã khái quát các tác phẩm khác nhau thành một số loại thể nhất định dựa theo những qui luật loại hình. Những qui luật này chi phối, qui định các yếu tố khác nhau của tác phẩm văn học. Mỗi loại thể khác nhau có các loại nhân vật, kết cấu, lời văn khác nhau. Chẳng hạn khi nói đến loại tác phẩm trữ tình, ta có thể nhắc đến nhân vật trữ tình, kết cấu trong thơ trữ tình, lời thơ, câu thơ, đoạn thơ, luật thơ.. Nói đến tác phẩm tự sự, có thể nói đến nhân vật tự sự, kết cấu trong tác phẩm tự sự, lời văn tự sự. Qua tác phẩm kịch, có thể nói đến nhân vật kịch, kết cấu kịch, lời đối thoại, hành động kịch...
Tuy nhiên cũng cần chú ý bên cạnh qui luật loại hình, thực tiễn văn học bao giờ cũng phong phú và đa dạng hơn nhiều. Nhà văn sáng tác tác phẩm là nhằm diễn đạt một cách đúng đắn và đầy đủ nhất những vấn đề đời sống mà họ quan tâm, những rung động thẩm mĩ độc đáo. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về loại thể, cần nắm vững tính lặp lại của qui luật nhưng đồng thời cũng phải nhận ra sự độc đáo trong sự vận dụng và sáng tạo của tác giả.
II. SỰ PHÂN LOẠI THỂ LOẠI VĂN HỌC
Lí luận văn học xưa nay đã có nhiều cách phân chia loại thể văn học khác nhau:
1. Ở phương Tây.
Ngay từ thế kỉ thứ 4 trước công nguyên, Aristote trong Nghệ thuật thơ ca đã dựa vào nguyên tắc phản ánh phân chia văn học thành 3 loại. Ông cho rằng nghệ thuật là sự "mô phỏng", "bắt chước" thực tại. Tương ứng với 3 hình thức mô phỏng đó là 3 loại văn học: loại tác phẩm tự sự, loại tác phẩm trữ tình và loại kịch. Cách phân loại này của Aristote nhìn chung được nhiều nhà mĩ học, trong đó có Secnưxepxki, Ðôbrôliubôp tán thành.
Horace, Boileau đồng ý với quan điểm phân loại của Aristote nhưng đồng thời nhấn mạnh đến giá trị cao thấp của từng loại thể. Theo họ, loại "thơ chủ yếu" gồm bi kịch, hài kịch và anh hùng ca, còn thơ trữ tình chỉ là "thơ thứ yếu"
Hégel cũng phân chia văn học làm 3 loại nhưng lại dựa vào đối tượng mô tả. Theo ông, loại tự sự mô tả sự kiện, loại trữ tình thể hiện những trạng thái tâm hồn còn kịch thì miêu tả hành động. Biêlinxki tán thành ý kiến của Hégel đồng thời nói rõ thêm: tác phẩm tự sự  chủ yếu mô tả sự tiếp xúc, va chạm giữa con người và xã hội, tác phẩm trữ tình chủ yếu bộc lộ cảm xúc cá nhân, kịch chủ yếu miêu tả sự xung đột, mâu thuẫn giữa các tính cách. Biêlinxki cũng đã nêu lên ý kiến cho rằng trong thực tế văn học, nhiều khi các loại trên thâm nhập, chuyển hóa, kết hợp với nhau chứ không tách biệt một cách tuyệt đối.
2. Ở Trung Quốc.
Sự phân loại văn học ở Trung Quốc xuất hiện khá sớm. Lúc đầu họ chia là 2 loại: thơ và văn xuôi (vận văn và tản văn). Sau này, Tào Phi chia văn học làm 4 loại: Tấu- nghị, Thư luận, Minh lỗi, Thơ phú. Sau Tào Phi, Lục Cơ, Chấp Ngu, Tiêu Thống cũng có nêu lên những cách phân loại khác nhau. tuy nhiên cách phân loại của những tác giả này quá chi li, vụn vặt nhưng vẫn không thoát khỏi những cách phân loại đã có từ đầu.
Trong thời kì cận và hiện đại, Trung Quốc thừa nhận cách phân chia văn học thành 4 loại: thơ ca, văn xuôi, tiểu thuyết và kịch. Theo cách phân loại này, văn xuôi bao gồm tất cả các loại ngoài thơ ca, tiểu thuyết và kịch. Tiểu thuyết, thực ra phải thuộc loại văn xuôi nhưng do tầm vóc cũng như dung lượng hiện thực nên được xếp vào một loại riêng còn kịch thì thống nhất với kịch ở phương tây. 
3. Ở  Việt Nam.
Các giáo trình chủ yếu dựa theo phân loại của phương tây nhưng trình bày thành 4 loại chủ yếu: Thơ, tiểu thuyết, kí và kịch. Có người chia làm 5 loại: tự sự, trữ tình, kịch, kí, trào phúng. Trong lí luận văn học tập 2, Trần Ðình Sử  lại phân chia thành: tự sự, trữ tình, kịch, kí và chính luận.
Các sự phân loại trên đều có tính chất tương đối. Bởi vì, thực tế văn học vốn đa dạng, phong phú, khó có một sự khái quát nào đầy đủ và trùng khít với thực tế được. Vì vậy, giáo trình này tạm chấp nhận cách phân văn học thành 5 loại: Loại tác phẩm trữ tình, loại tác phẩm tự sự, loại tác phẩm kịch, loại tác phẩm kí văn học và loại tác phẩm chính luận
Dựa vào sự phân loại trên, có thể sắp xếp các thể loại vào các loại tương ứng:
Loại tự sự bao gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, truyện thơ, anh hùng ca, truyện cổ tích...
Loại trữ tình bao gồm thơ trữ tình, văn xuôi trữ tình...
Loại kịch bao gồm bi kịch, hài kịch, chính kịch, kịch thơ...
Loại kí bao gồm kí sự, phóng sự, bút kí, hồi kí...
Loại chính luận bao gồm các kí chính luận, nghị luận văn chương, xã hội, chính trị...
Ngoài cách phân chia văn học như trên, cần phải dựa vào các tiêu chí khác nữa để tiến hành phân chia các thể loại văn học.
III. MỘT SỐ TIÊU CHÍ PHÂN CHIA THỂ LOẠI TÁC PHẨM VĂN HỌC
1. Dựa vào hình thức câu văn: thơ (văn vần) và văn xuôi (tản văn)
Ở đây có thể nói đến truyện thơ, truyện văn xuôi, thơ, thơ văn xuôi, kịch thơ, kịch nói, thơ ngụ ngôn, truyện ngụ ngôn.
2. Dựa vào thể văn, tức hình thức lời văn được tổ chức theo một thể thức nào đó
Chẳng hạn thể thơ 2, 3, 4, 5, 6, 8 chữ, thơ song thất lục bát, thơ lục bát, thơ tự do. Thể văn xuôi: thể nhật kí, chiếu, biểu, văn tế ...Mỗi loại văn thường sử dụng một thể văn tương ứng: loại tự sự sử dụng văn trần thụât, kịch sử dụng văn đối thoại, thơ dùng thể văn giải bày cảm xúc, bộc lộ.
3. Dựa vào dung lượng tác phẩm.
Là tiêu chí, chủ yếu dựa vào hiện thực được thể hiện trong tác phẩm và độ dài ngắn của nó. Có thể nói đến truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, thơ, trường ca, khúc ngâm, kịch ngắn, kịch nhiều hồi.
4. Dựa vào cảm hứng, tình điệu thẩm mĩ có thể phân ra:
    Tụng ca, bi ca, trữ tình hay châm biếm, truyện cười, truyện tình cảm, bi kịch, hài kịch, chính kịch...Ngoài ra, người ta có thể dựa vào nội dung thể loại để phân chia tác phẩm văn học: thể loại lịch sử dân tộc, thể loại đạo đức thế sự, thể loại đời tư.
Các thể loại được trình bày trên đều có thể được thể hiện trong các loại tác phẩm văn học khác nhau và nhiều khi có sự kết hợp chặt chẽ chứ không hoàn toàn tách biệt. Vì vậy, khi nghiên cứu về loại thể tác phẩm văn học cần chú ý đến các hình thức trung gian, kết hợp giữa văn xuôi và văn vần, giữa tự sự và trữ tình, giữa thơ và truyện, hoặc giữa văn học với các lĩnh vực khác, chẳng hạn như giữa văn học và lịch sử, giữa văn học và nghiên cứu, giữa văn học và âm nhạc, giữa văn học và nghệ thuât sân khấu.
Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc, từ văn học dân gian đến văn học viết, từ văn học cổ đến văn học hiện đại, có thể có nhiều loại, thể loại văn học khác nhau nhưng nhìn một cách tổng quát, dựa vào cơ sở phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống, những dạng kết hợp khác nhau có thể phân văn học thành 5 loại: trữ tình, tự sự, kịch, kí, chính luận.

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC


LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
I. NGÔN NGỮ VÀ LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
1. Phân biệt ngôn ngữ và lời văn (lời nói)
Trong "Giáo trình ngôn ngữ học đại cương", F. De Saussure đã đưa ra một phân biệt nổi tiếng giữa ngôn ngữ (langue) và lời nói (parole). Theo ông, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu tạo thành một kho tàng dự trữ trong tư duy của một cộng đồng người. Mỗi kí hiệu bao gồm hai phương diện gắn liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt trong ngôn ngữ gọi là vỏ vật chất còn cái được biểu đạt là khái niệm. Giữa chúng có mối quan hệ võ đoán tuyệt đối hay tương đối do qui ước của xã hội mà nhiều khi không thể giải thích một cách tường tận được.
Lời nói là sản phẩm của cá nhân, là sự vận dụng kho tàng ngôn ngữ của từng người trong từng hoàn cảnh cụ thể. Ngôn từ trong tác phẩm là một kiểu lời nói (lời văn) nghệ thuật do nhà văn sáng tạo trên cơ sở sản phẩm xã hội mà ông ta tiếp thu được. Lời văn nghệ thuật này chính là đối tượng của sự tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học.
2. Lời văn trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật.
    Ðặc điểm chung của văn học nghệ thuật là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nhưng trong mỗi bộ môn và loại hình nghệ thuật khác nhau, các hình tượng có những đặc điểm cụ thể riêng. Những đặc điểm cụ thể đó của hình tượng được qui định bởi chất liệu và phương tiện riêng. Trong nghệ thuật tạo hình, hội họa sử dụng đường nét, màu sắc; điêu khắc dùng hình khối nhằm trực tiếp miêu tả các hiện tượng của đời sống. Trong nghệ thuật biểu hiện, âm nhạc sử dụng âm thanh, múa dùng điệu bộ, dáng vẻ đã được cách điệu hóa...Trong loại hình nghệ thuật tổng hợp, người ta sử dụng nhiều phương tiện của các ngành nghệ thuật khác nhau nhằm phục vụ cho việc diễn xuất.
Văn học, một loại hình nghệ thuật độc lập, phát triển song song với các loại hình nghệ thuật khác nhưng lấy ngôn ngữ làm phương tiện diễn đạt. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học. Tuy nhiên ngôn ngữ không phải là phương tiện diễn đạt riêng của văn học. Nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống cũng sử dụng ngôn ngữ. Vậy, ngôn ngữ văn học có gì khác so với các lĩnh vực khác?
3. Ðặc trưng của lời văn nghệ thuật.
1.3.1. Tính chính xác, trong sáng có thể được coi là đặc trưng đầu tiên của lời văn nghệ thuật. Chỉ với những lời văn chính xác, trong sáng, nhà văn mới có thể biểu hiện một cách đúng đắn và đầy đủ những sắc thái, cảm xúc, những điều mà nhà văn muốn diễn đạt. Ngôn ngữ nói chung có thể diễn đạt được mọi thứ nhưng để đạt được điều đó, nhà văn phải vật lộn, học hỏi, tích lũy... Nói như một nhà văn: "Trên đời không có sự giày vò nào ghê gớm hơn sự giày vò của ngôn ngữ" hoặc như Maiacôpxki từng viết:
Làm thơ
Chẳng khác gì khai thác
Chất hiếm radium
Lấy một gam
Mất hàng năm lao lực
Chỉ mỗi một từ
Có khi mất đứt
Hàng trăm nghìn
Tấn quặng xỉn ngôn từ.
(Nói chuyện với người thanh tra tài chánh)
Tính chính xác của lời văn nghệ thuật cần được hiểu không phải theo nghĩa cơ giới, toán học mà là sự diễn đạt hoàn hảo nhất một tâm trạng, một sự vật, một ý nghĩ, một hiện tượng bằng một từ duy nhất đúng. Guy de Maupassant cho rằng "Ðối tượng mà anh (nhà văn) muốn nói đến, dù là cái gì đi nữa, cũng chỉ có một từ biểu hiện nó". Người ta thường nhắc đến việc chọn lựa từ ngữ trong sáng tạo nghệ thuật qua câu chuyện "thôi, xao". Một hôm, Giả Ðảo (779-843), một nhà sư hoàn tục cưỡi ngựa về Tràng An. Ông đương bận nghĩ đến 2 câu thơ vừa mới sáng tác:
Ðiểu túc trì biên tụ
Tăng thôi nguyệt hạ môn"
(Chim đậu ở cây bờ ao
Nhà sư đẩy cửa dưới trăng)
Giả Ðảo băn khoăn không biết nên dùng chữ thôi (đẩy cửa) hay xao (gõ cửa).  Ông buông cương, huơ tay bắt chước nhà sư lúc đẩy cửa, lúc gõ cửa. Ngựa đi vào đám quân của một vị quan đang đi kinh lí. Quân lính bắt Giả Ðảo trình quan. May thay, viên quan đó chính là Hàn Dũ. Sau khi nghe Giả Ðảo bày tỏ sự việc, Hàn Dũ suy nghĩ và góp ý nên dùng chữ "xao" (gõ). Có lẽ gõ gợi lên được hình tượng về âm thanh. Sau này, người ta thường dùng  chữ "thôi, xao" với ý nghĩa là cân nhắc từng chữ để sửa chữa bài văn, bài thơ cho thật tốt.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng hàng loạt các từ khác nhau để chỉ người phụ nữ nhưng ở mỗi lời văn lại có những sắc thái khác nhau:
- Ðau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
- Hồng quân với khách hồng quần
Ðã xoay đến thế vần vần chưa tha.
- Rằng: hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
- Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
- Canh khuya bức gấm rủ thao
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
- Cớ sao chị tốt một bề
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao…
Lời văn nghệ thuật đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn nghiêm khắc để có được những từ diễn đạt một cách đắc địa nhất tư tưởng, tình cảm của mình.
1.3.2. Tính hàm súc. Ðặc điểm này bắt nguồn từ nguyên tắc tiết kiệm trong ngôn ngữ, nghĩa là nói và viết sao cho "lời chật mà ý rộng", là sử dụng một số lượng chất liệu tối thiểu mà đạt được hiệu quả nghệ thuật tối đa. Mượn ý của Tô Ðông Pha, Lê Quí Ðôn viết: "Ý hết mà lời dừng, ấy là cái lời rất mực trong thiên hạ. Song lời dừng mà ý chưa hết được lại càng hay tuyệt".
1.3.3. Tính mơ hồ, đa nghĩa cũng là một đặc điểm của lời văn nghệ thuật dù đây cũng là đặc điểm dễ nhận thấy trong lời nói hằng ngày. Trong văn học, tính mơ hồ, đa nghĩa được nhân lên và trở thành một đặc điểm nổi bật bởi vì người nghệ sĩ thường hướng tới lời văn mơ hồ, đa nghĩa nhằm tạo nên những tầng lớp nghĩa khác nhau, nhằm "khêu gợi vô số những tư tưởng, những quan niệm, những cách giải thích". Ðiều này về bản chất có thể phân biệt khá rõ giữa lời văn nghệ thuật và lời văn trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống.
1.3.4. Tính tạo hình và biểu cảm. Một đặc trưng có tầm quan trọng nhất nhằm phân biệt lời văn nghệ thuật với lời văn thuộc các lĩnh vực khác là tính tạo hình và biểu cảm. Tạo hình là tạo nên  một lời văn giàu hình ảnh, tái tạo đối tượng trong hình thái cụ thể, không lặp lại của nó. Chỉ bằng tính chất tạo hình, nhà văn mới làm sống lại một cách cụ thể , cảm tính những dáng vẻ riêng biệt . Bên cạnh đó, lời văn nghệ thuật còn biểu hiện những cảm nhận độc đáo của nhà văn với tư cách là nghệ sĩ và những nhà văn lớn bao giờ cũng có những độc đáo trong phong phong cách. Tsêkhôp quan niệm "nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả"
Hai phẩm chất tạo hình và biểu cảm được kết hợp một cách hữu cơ, xuyên thấm vào nhau và trong nhiều trương hợp, khó thể tách rời. Vì vậy cần nhìn chúng là một đặc điểm thống nhất của lời văn nghệ thuật: tạo hình để biểu cảm, biểu cảm để tạo hình, trong tạo hình có biểu cảm và ngược lại.
Lời văn nghệ thuật của tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng có chức năng xây dựng hình tượng nên luôn luôn mang tính thẩm mĩ cao.
II. CÁC PHƯƠNG TIỆN XÂY DỰNG LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
Lời văn nghệ thuật được xây dựng từ tất cả những khả năng và phương tiện của ngôn ngữ toàn dân trên mọi bình diện từ ngữ âm, từ vựng, cú pháp, các phương thức tu từ...đến các hình thức ngôn từ vốn có trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc như từ cổ, tiếng địa phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở thành di sản nghệ thuật dân tộc. Như vậy, những phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật cũng được sử dụng trong những lĩnh vực khác nhưng điểm khác nhau ở đây là lời văn nghệ thuật có chức năng xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc thù. Có thể xét các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật trên các góc độ:
1. Xét từ góc độ ngữ âm.
Lời văn nghệ thuật gắn liền với các yếu tố: thanh, vần, âm, nhịp điệu...Những yếu tố này thường tạo được những hiệu quả đáng kể. Trong văn học, khi nhà văn chọn lựa thanh bằng hoặc trắc, trầm hay bỗng, mở hay khép, nhịp điệu khoan hay nhặt...đều có ảnh hưởng đến việc biểu hiện nội dung. Người xưa thường nói "Thi trung hữu nhạc". Lê Ðình Diên viết: "Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là sự hổ trợ của thơ, tình rung động phát ra thành thanh, người ta có thanh mà  sau đó có ý".
Chẳng hạn, giọng điệu của một nhân vật trong Sống mòn của Nam Cao: "Tiền giai đưa gái có đòi được cái đếch người ta". bốn phụ âm đ gần nhau, tạo ra một giọng điệu bất cần, có phần đểu cáng. Hoặc "Tiếng cười vỡ lở ra, ằng ăc, hi hí, hô hố". Các câu thơ của Tản Ðà:
Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương.
Có 5 thanh trắc cuối và hai phụ âm cuối tắt thanh hầu (p,t) tạo nên sự uất nghẹn. Bảy thanh bằng kết hợp với các âm cuối vang (n, ng), 3 âm tiết mở (ô, ê, ê) tạo nên sự rộng mở, thanh thoát, phù hợp với tâm trạng thoát trần.
Như vậy, sự kết hợp các yếu tố thanh, vần, nhịp điệu...có những vai trò nhất định góp phần diễn đạt những sắc thái khác nhau của lời văn trong tác phẩm nghệ thuật.
2. Xét từ góc độ từ vựng.
Là toàn bộ các từ trong một ngôn ngữ. Ðây là phương tiện tạo hình và biểu cảm vô cùng quan trọng để tạo nên lời văn nghệ thuật. Có thể kể các loại: từ đồng nghĩa , phản nghĩa, tiếng nghề nghiệp, tiếng địa phương, tiếng nước ngoài đã được việt hóa, từ tôn giáo..Ðể tạo nên lời văn nghệ thuật, nhà văn phải tích lũy cho mình một vốn từ phong phú để sử dụng lúc lúc, đúng chỗ. Chế Lan Viên có những câu thơ rất hay về vấn đề này:
Mỗi ngày gặp một người, họ là một mảnh của thiên tài nhân loại.
Máu và mồ hôi người góp nên bao hình ảnh ngữ ngôn,
Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vải
Tất cả, một người, dù lạ hay quen đều viết cho thơ anh một chữ.
Hãy nhặt những chữ của đời mà viết nên trang,
3. Xét từ góc độ ngữ nghĩa.
Các phương tiện chuyển nghĩa là một biện pháp nghệ thuật được nhà văn sử dụng để tạo nên những khả năng biểu hiện của lời văn. Ðó là các phương thức chuyển nghĩa dựa vào sự tương ứng của hai hiện tượng, hay dùng hiện tượng này để nhận thức và giải thích hiện tượng kia. Chức năng chung của các phương tiện chuyển nghĩa là làm hiện lên sự vật, hiện tượng trong các tương quan ý nghĩa khác nhau. Có thể nói đến các phương thức chuyển nghĩa tiêu biểu:
2.3.1. So sánh.(Ví von) là hình thức được sử dụng quen thuộc nhất trong tác phẩm văn học. Nó đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một dấu hiệu chung nào đó (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng.
- Ðôi ta làm bạn thong dong.
Như đôi đũa bạc nằm trong mâm vàng. (ca dao).
- Lòng em như quán bán hàng
Lòng anh như khách qua đàng dừng chân. (ca dao).
- Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Ðã chôn điếu xuống lại đào điếu lên (ca dao).
So sánh thường dùng các liên từ: như , giống như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, giữa hai vế nhiều người vẫn không sử dụng  từ so sánh:
- Lòng anh, giếng ngọt trong veo.
Trăng thu trong vắt, biển trời trong xanh (ca dao).
- Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
2.3.2. Ẩn dụ. (ví ngầm) là biện pháp so sánh ngầm trong đó chỉ có vế so sánh xuất hiện nhưng nhờ sự liên tưởng và văn cảnh, người đọc vẫn có thể liên hệ được đến đối tượng được so sánh:
- Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền .
- Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về (Kiều)
- Em tưởng nước giếng sâu em nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây. (ca dao).
2.3.3. Nhân hóa là hiện tượng nghệ thuật sử dụng từ vốn chỉ thuộc tính, khả năng của con người chuyển sang biểu thị thuộc tính, khả năng của đối tượng không phải người.
- Vì sương nên núi bạc đầu
Biển lay bởi gió, hoa sầu vì mưa (ca dao)
Hoặc trò chuyện, bày tỏ với một đối tượng không phải người:
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương (ca dao)
2.3.4. Phúng dụ là một ẩn dụ được phát triển bao trùm toàn bộ tác phẩm, thường mang tính chất ngụ ý. Ðây là sự tổ chức các hình ảnh sinh động, cụ thể để biểu thị một ý niệm về triết lí, nhân sinh dựa trên cơ sở liên tưởng những nét tương đồng giữa các hình ảnh sinh động và ý niệm về triết lí nhân sinh. Vì vậy, phúng dụ bao giờ cũng có 2 ý nghĩa: ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa bề sâu.
- Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
- Con kiến mày leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào
Con kiến mày leo cành đào
Leo phải cành cụt leo vào leo ra
Những bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, Con cáo và tổ ong, Bài ca sợi chỉ, Nhóm lửa... của Hồ Chủ Tịch đều được viết theo biện pháp phúng dụ. Loại này thường được sử dụng trong thơ, truyện ngụ ngôn.
2.3.5. Tượng trưng. Khi hoán dụ, ẩn dụ được sử dụng quen thuộc, được cố định lại trong tư duy của con người, trở thành hình ảnh có tính chất ước lệ, được gọi là tượng trưng. Chẳng hạn, chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình, diều hâu tượng trưng cho chiến tranh; tùng, cúc, trúc, mai làm người ta liên tưởng đến phẩm giá của con người. Con cò trong ca dao thường tượng trưng cho thân phận vất vả của người phụ nữ, người nông dân hiền lành, chất phát. Hình ảnh con cò được thể hiện thật cảm động trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo seo mặt nước buổi đò đông.
2.3.6. Khoa trương là lối dùng từ cố ý thay đổi kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật nhằm đạt đến mục đích làm rõ bản chất của đối tượng và tăng hiệu quả biểu hiện:
Chìm đáy nước cá lờ lờ lặn.
Lững lưng trời nhạn ngẫn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi khiếp vía Hằng Nga giật mình.
 (Cung oán ngâm khúc)
Trong truyện Lang Rận, Nam Cao miêu tả bộ mặt của Lang Rận qua cái nhìn của bà Cựu: "Cái mặt ấy cho dù mỗi ngày có rửa ba lượt xà phòng, bà Cựu trông thấy vãn còn buồn nôn"
2.3.7. Nhã ngữ. Ngược lại với khoa trương. Ðây là lối dùng từ cố ý giảm đi mức độ của kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật, hiện tượng nhằm thể hiện một tình cảm nào đó và thường được sử dụng để nói về cái chết:
- Bác đã lên đường theo tổ tiên (Tố Hữu)
- Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Nguyễn Khuyến)
2.3.8. Phản ngữ vận dụng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả:
- Ðức chúa trời của chúng mặt Sa Tăng. (Chế Lan Viên)
- Anh đã chết rồi, anh còn sống mãi (Tố Hữu)
2.3.9. Chơi chữ là cách tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp nhằm tạo ra một phần tin khác với phần tin cơ sở. Phần tin khác này mang nghĩa hoàn toàn mới, bất ngờ mà về bản chất không liên quan gì với phần tin cơ sở.
- Bà già đi chợ cầu Ðông
Bói xem một qủ có chồng lợi chăng
Ông thầy xem quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. (Ca dao)
-Dỡ dang dang dỡ vì sông
Ngày làm công nhật đêm trông dạ chàng (ca dao)
- Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non (ca dao).
4. Xét từ góc độ cú pháp
 Các phương tiện cú pháp như câu, điệp từ, chấm câu, câu nghi vấn, câu cảm thán..cũng gíúp cho lời văn nghệ thuật có sức truyền cảm nhằm diễn đạt ý tình của nhà văn:
- Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
- Bạc phơ mái tóc người cha. (Tố Hữu)
- Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị (Tế Hanh)
- Cỏ bên trời xanh một sắc Ðạm Tiên (Chế Lan Viên)
- Màu thời gian xanh xanh,
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
 (Màu thời gian. Ðoàn Phú Tứ)
Các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Việc nắm bắt các phương tiện trên chỉ mới là cơ sở để hiểu lời văn nghệ thuật. Ðiều quan trọng là phải phát hiện những phương tiện đó được nhà văn vận dụng cụ thể như thế nào để tạo nên lời văn nghệ thuật.
IV. CÁC THÀNH PHẦN LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
Có thể chia lời văn nghệ thuật ra thành lời tác giả và lời nhân vật hay lời trực tiếp và lời gián tiếp.
1. Lời tác giả và lời nhân vật.
 Lời tác giả thường chính là lời trần thuật hoặc miêu tả còn lời nhân vật là lời mà nhân vật trực tiếp nói lên trong tác phẩm.
Việc phân biệt như trên thực ra chỉ có tính chất ước lệ, tương đối bởi vì mọi lời văn trong tác phẩm thực chất đều là lời của tác giả. Mọi lời nói của nhân vật đều do tác giả hư cấu, sáng tạo nên. Tuy nhiên, sự phân biệt này vẫn có một ý nghĩa nhất định.
Ơí đây, có sự khác biệt giữa lời nhân vật trong văn học cổ và lời nhân vật trong văn học cận, hiện đại. Trong văn học cổ, lời nhân vật thường không được cá tính hóa rõ nét, thể hiện bản chất của nhân vật mà thường do sự gán ghép từ những suy nghĩ riêng của tác giả. Trong văn học cận, hiện đại, lời nhân vật được tác giả tôn trọng. Tác giả thường để cho nhân vật nói năng phù hợp với trình độ, suy nghĩ của chính họ. Nhân vật nói theo giọng điệu riêng của mình chứ không phải theo suy nghĩ chủ quan của tác giả.
2. Lời trực tiếp và lời gián tiếp.
Lời trực tiếp chủ yếu là lời nhân vật và một bộ phận lời của tác giả thể hiện một cách trực tiếp trong tác phẩm. Lời trực tiếp trong tác phẩm chủ yếu là những câu đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật khác. Có thể kể đến một số lời trực tiếp.
Lời trực tiếp phù hợp là lời mà nhân vật nghĩ sao, nói vậy. Lời trực tiếp không phù hợp là lời nhân vật nghĩ một dằng, nói một nẽo, nghĩ ít, nói nhiều hoặc ngược lại. Chẳng hạn, đoạn Kiều suy nghĩ trước khi khuyên Từ Hải ra hàng và những lời của Kiều nói với Từ  Hải. Ơí đây, cần hiểu lời nói của nhân vật không phải bằng câu chữ mà cần phải thấy ẩn ý, ý định của tác giả và nhân vật.
Lời gián tiếp là toàn bộ lời văn của tác giả hay người trần thuật có chức năng trình bày sự vật, hiện tượng như ngoại hình, môi trường, phong cảnh, sự kiện...vốn không tự nói được, được nói lên trong tác phẩm.
Theo Bakhtin, lời gián tiếp có thể chia làm 2 loại: lời gián tiếp một giọng và lời gián tiếp 2 giọng.
Lời gián tiếp một giọng là lời tái hiện hay bình phẩm các hiện tượng của thế giới theo ý nghĩa khách quan vốn có của chúng theo ý đồ của tác giả, không liên quan gì đến ý thức, suy nghĩ của người khác về chúng. trong văn học dân gian và văn học cổ, các tác giả thường sử dụng hình thức này. Lời gián tiếp hai giọng là lời tái hiện, bình phẩm các hiện tượng, hướng tới lời và ý thức người khác, tranh luận, phản bác hay đồng tình với chúng. loại này có thể có các dạng lời nửa trực tiếp, lời gián tiếp của người kể chuyện và lời gián tiếp phong cách hóa.
Tùy theo từng loại tác phẩm khác nhau, hai loại lời văn trên có vị trí, vai trò khác nhau. Nếu như trong tác phẩm tự sự ì, lời gián tiếp giữ vai trò chủ đạo thì trong loại tác phẩm kịch, lời trực tiếp lại giữ vai trò chủ đạo và hạn chế tối đa lời gián tiếp. Trong loại tác phẩm trữ tình, sự phân bố 2 thành phần trên phức tạp hơn nhưng điều quan trọng trong lời văn tác phẩm trữ tình không phải ở 2 thành phần đó mà chủ yếu được thể hiện ở nhịp thơ, câu thơ, luật thơ...

LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC


LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
I. NGÔN NGỮ VÀ LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
1. Phân biệt ngôn ngữ và lời văn (lời nói)
Trong "Giáo trình ngôn ngữ học đại cương", F. De Saussure đã đưa ra một phân biệt nổi tiếng giữa ngôn ngữ (langue) và lời nói (parole). Theo ông, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu tạo thành một kho tàng dự trữ trong tư duy của một cộng đồng người. Mỗi kí hiệu bao gồm hai phương diện gắn liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt trong ngôn ngữ gọi là vỏ vật chất còn cái được biểu đạt là khái niệm. Giữa chúng có mối quan hệ võ đoán tuyệt đối hay tương đối do qui ước của xã hội mà nhiều khi không thể giải thích một cách tường tận được.
Lời nói là sản phẩm của cá nhân, là sự vận dụng kho tàng ngôn ngữ của từng người trong từng hoàn cảnh cụ thể. Ngôn từ trong tác phẩm là một kiểu lời nói (lời văn) nghệ thuật do nhà văn sáng tạo trên cơ sở sản phẩm xã hội mà ông ta tiếp thu được. Lời văn nghệ thuật này chính là đối tượng của sự tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học.
2. Lời văn trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật.
    Ðặc điểm chung của văn học nghệ thuật là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nhưng trong mỗi bộ môn và loại hình nghệ thuật khác nhau, các hình tượng có những đặc điểm cụ thể riêng. Những đặc điểm cụ thể đó của hình tượng được qui định bởi chất liệu và phương tiện riêng. Trong nghệ thuật tạo hình, hội họa sử dụng đường nét, màu sắc; điêu khắc dùng hình khối nhằm trực tiếp miêu tả các hiện tượng của đời sống. Trong nghệ thuật biểu hiện, âm nhạc sử dụng âm thanh, múa dùng điệu bộ, dáng vẻ đã được cách điệu hóa...Trong loại hình nghệ thuật tổng hợp, người ta sử dụng nhiều phương tiện của các ngành nghệ thuật khác nhau nhằm phục vụ cho việc diễn xuất.
Văn học, một loại hình nghệ thuật độc lập, phát triển song song với các loại hình nghệ thuật khác nhưng lấy ngôn ngữ làm phương tiện diễn đạt. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học. Tuy nhiên ngôn ngữ không phải là phương tiện diễn đạt riêng của văn học. Nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống cũng sử dụng ngôn ngữ. Vậy, ngôn ngữ văn học có gì khác so với các lĩnh vực khác?
3. Ðặc trưng của lời văn nghệ thuật.
1.3.1. Tính chính xác, trong sáng có thể được coi là đặc trưng đầu tiên của lời văn nghệ thuật. Chỉ với những lời văn chính xác, trong sáng, nhà văn mới có thể biểu hiện một cách đúng đắn và đầy đủ những sắc thái, cảm xúc, những điều mà nhà văn muốn diễn đạt. Ngôn ngữ nói chung có thể diễn đạt được mọi thứ nhưng để đạt được điều đó, nhà văn phải vật lộn, học hỏi, tích lũy... Nói như một nhà văn: "Trên đời không có sự giày vò nào ghê gớm hơn sự giày vò của ngôn ngữ" hoặc như Maiacôpxki từng viết:
Làm thơ
Chẳng khác gì khai thác
Chất hiếm radium
Lấy một gam
Mất hàng năm lao lực
Chỉ mỗi một từ
Có khi mất đứt
Hàng trăm nghìn
Tấn quặng xỉn ngôn từ.
(Nói chuyện với người thanh tra tài chánh)
Tính chính xác của lời văn nghệ thuật cần được hiểu không phải theo nghĩa cơ giới, toán học mà là sự diễn đạt hoàn hảo nhất một tâm trạng, một sự vật, một ý nghĩ, một hiện tượng bằng một từ duy nhất đúng. Guy de Maupassant cho rằng "Ðối tượng mà anh (nhà văn) muốn nói đến, dù là cái gì đi nữa, cũng chỉ có một từ biểu hiện nó". Người ta thường nhắc đến việc chọn lựa từ ngữ trong sáng tạo nghệ thuật qua câu chuyện "thôi, xao". Một hôm, Giả Ðảo (779-843), một nhà sư hoàn tục cưỡi ngựa về Tràng An. Ông đương bận nghĩ đến 2 câu thơ vừa mới sáng tác:
Ðiểu túc trì biên tụ
Tăng thôi nguyệt hạ môn"
(Chim đậu ở cây bờ ao
Nhà sư đẩy cửa dưới trăng)
Giả Ðảo băn khoăn không biết nên dùng chữ thôi (đẩy cửa) hay xao (gõ cửa).  Ông buông cương, huơ tay bắt chước nhà sư lúc đẩy cửa, lúc gõ cửa. Ngựa đi vào đám quân của một vị quan đang đi kinh lí. Quân lính bắt Giả Ðảo trình quan. May thay, viên quan đó chính là Hàn Dũ. Sau khi nghe Giả Ðảo bày tỏ sự việc, Hàn Dũ suy nghĩ và góp ý nên dùng chữ "xao" (gõ). Có lẽ gõ gợi lên được hình tượng về âm thanh. Sau này, người ta thường dùng  chữ "thôi, xao" với ý nghĩa là cân nhắc từng chữ để sửa chữa bài văn, bài thơ cho thật tốt.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng hàng loạt các từ khác nhau để chỉ người phụ nữ nhưng ở mỗi lời văn lại có những sắc thái khác nhau:
- Ðau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
- Hồng quân với khách hồng quần
Ðã xoay đến thế vần vần chưa tha.
- Rằng: hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
- Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
- Canh khuya bức gấm rủ thao
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
- Cớ sao chị tốt một bề
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao…
Lời văn nghệ thuật đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn nghiêm khắc để có được những từ diễn đạt một cách đắc địa nhất tư tưởng, tình cảm của mình.
1.3.2. Tính hàm súc. Ðặc điểm này bắt nguồn từ nguyên tắc tiết kiệm trong ngôn ngữ, nghĩa là nói và viết sao cho "lời chật mà ý rộng", là sử dụng một số lượng chất liệu tối thiểu mà đạt được hiệu quả nghệ thuật tối đa. Mượn ý của Tô Ðông Pha, Lê Quí Ðôn viết: "Ý hết mà lời dừng, ấy là cái lời rất mực trong thiên hạ. Song lời dừng mà ý chưa hết được lại càng hay tuyệt".
1.3.3. Tính mơ hồ, đa nghĩa cũng là một đặc điểm của lời văn nghệ thuật dù đây cũng là đặc điểm dễ nhận thấy trong lời nói hằng ngày. Trong văn học, tính mơ hồ, đa nghĩa được nhân lên và trở thành một đặc điểm nổi bật bởi vì người nghệ sĩ thường hướng tới lời văn mơ hồ, đa nghĩa nhằm tạo nên những tầng lớp nghĩa khác nhau, nhằm "khêu gợi vô số những tư tưởng, những quan niệm, những cách giải thích". Ðiều này về bản chất có thể phân biệt khá rõ giữa lời văn nghệ thuật và lời văn trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống.
1.3.4. Tính tạo hình và biểu cảm. Một đặc trưng có tầm quan trọng nhất nhằm phân biệt lời văn nghệ thuật với lời văn thuộc các lĩnh vực khác là tính tạo hình và biểu cảm. Tạo hình là tạo nên  một lời văn giàu hình ảnh, tái tạo đối tượng trong hình thái cụ thể, không lặp lại của nó. Chỉ bằng tính chất tạo hình, nhà văn mới làm sống lại một cách cụ thể , cảm tính những dáng vẻ riêng biệt . Bên cạnh đó, lời văn nghệ thuật còn biểu hiện những cảm nhận độc đáo của nhà văn với tư cách là nghệ sĩ và những nhà văn lớn bao giờ cũng có những độc đáo trong phong phong cách. Tsêkhôp quan niệm "nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả"
Hai phẩm chất tạo hình và biểu cảm được kết hợp một cách hữu cơ, xuyên thấm vào nhau và trong nhiều trương hợp, khó thể tách rời. Vì vậy cần nhìn chúng là một đặc điểm thống nhất của lời văn nghệ thuật: tạo hình để biểu cảm, biểu cảm để tạo hình, trong tạo hình có biểu cảm và ngược lại.
Lời văn nghệ thuật của tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng có chức năng xây dựng hình tượng nên luôn luôn mang tính thẩm mĩ cao.
II. CÁC PHƯƠNG TIỆN XÂY DỰNG LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
Lời văn nghệ thuật được xây dựng từ tất cả những khả năng và phương tiện của ngôn ngữ toàn dân trên mọi bình diện từ ngữ âm, từ vựng, cú pháp, các phương thức tu từ...đến các hình thức ngôn từ vốn có trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc như từ cổ, tiếng địa phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở thành di sản nghệ thuật dân tộc. Như vậy, những phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật cũng được sử dụng trong những lĩnh vực khác nhưng điểm khác nhau ở đây là lời văn nghệ thuật có chức năng xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc thù. Có thể xét các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật trên các góc độ:
1. Xét từ góc độ ngữ âm.
Lời văn nghệ thuật gắn liền với các yếu tố: thanh, vần, âm, nhịp điệu...Những yếu tố này thường tạo được những hiệu quả đáng kể. Trong văn học, khi nhà văn chọn lựa thanh bằng hoặc trắc, trầm hay bỗng, mở hay khép, nhịp điệu khoan hay nhặt...đều có ảnh hưởng đến việc biểu hiện nội dung. Người xưa thường nói "Thi trung hữu nhạc". Lê Ðình Diên viết: "Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là sự hổ trợ của thơ, tình rung động phát ra thành thanh, người ta có thanh mà  sau đó có ý".
Chẳng hạn, giọng điệu của một nhân vật trong Sống mòn của Nam Cao: "Tiền giai đưa gái có đòi được cái đếch người ta". bốn phụ âm đ gần nhau, tạo ra một giọng điệu bất cần, có phần đểu cáng. Hoặc "Tiếng cười vỡ lở ra, ằng ăc, hi hí, hô hố". Các câu thơ của Tản Ðà:
Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương.
Có 5 thanh trắc cuối và hai phụ âm cuối tắt thanh hầu (p,t) tạo nên sự uất nghẹn. Bảy thanh bằng kết hợp với các âm cuối vang (n, ng), 3 âm tiết mở (ô, ê, ê) tạo nên sự rộng mở, thanh thoát, phù hợp với tâm trạng thoát trần.
Như vậy, sự kết hợp các yếu tố thanh, vần, nhịp điệu...có những vai trò nhất định góp phần diễn đạt những sắc thái khác nhau của lời văn trong tác phẩm nghệ thuật.
2. Xét từ góc độ từ vựng.
Là toàn bộ các từ trong một ngôn ngữ. Ðây là phương tiện tạo hình và biểu cảm vô cùng quan trọng để tạo nên lời văn nghệ thuật. Có thể kể các loại: từ đồng nghĩa , phản nghĩa, tiếng nghề nghiệp, tiếng địa phương, tiếng nước ngoài đã được việt hóa, từ tôn giáo..Ðể tạo nên lời văn nghệ thuật, nhà văn phải tích lũy cho mình một vốn từ phong phú để sử dụng lúc lúc, đúng chỗ. Chế Lan Viên có những câu thơ rất hay về vấn đề này:
Mỗi ngày gặp một người, họ là một mảnh của thiên tài nhân loại.
Máu và mồ hôi người góp nên bao hình ảnh ngữ ngôn,
Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vải
Tất cả, một người, dù lạ hay quen đều viết cho thơ anh một chữ.
Hãy nhặt những chữ của đời mà viết nên trang,
3. Xét từ góc độ ngữ nghĩa.
Các phương tiện chuyển nghĩa là một biện pháp nghệ thuật được nhà văn sử dụng để tạo nên những khả năng biểu hiện của lời văn. Ðó là các phương thức chuyển nghĩa dựa vào sự tương ứng của hai hiện tượng, hay dùng hiện tượng này để nhận thức và giải thích hiện tượng kia. Chức năng chung của các phương tiện chuyển nghĩa là làm hiện lên sự vật, hiện tượng trong các tương quan ý nghĩa khác nhau. Có thể nói đến các phương thức chuyển nghĩa tiêu biểu:
2.3.1. So sánh.(Ví von) là hình thức được sử dụng quen thuộc nhất trong tác phẩm văn học. Nó đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một dấu hiệu chung nào đó (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng.
- Ðôi ta làm bạn thong dong.
Như đôi đũa bạc nằm trong mâm vàng. (ca dao).
- Lòng em như quán bán hàng
Lòng anh như khách qua đàng dừng chân. (ca dao).
- Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Ðã chôn điếu xuống lại đào điếu lên (ca dao).
So sánh thường dùng các liên từ: như , giống như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, giữa hai vế nhiều người vẫn không sử dụng  từ so sánh:
- Lòng anh, giếng ngọt trong veo.
Trăng thu trong vắt, biển trời trong xanh (ca dao).
- Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
2.3.2. Ẩn dụ. (ví ngầm) là biện pháp so sánh ngầm trong đó chỉ có vế so sánh xuất hiện nhưng nhờ sự liên tưởng và văn cảnh, người đọc vẫn có thể liên hệ được đến đối tượng được so sánh:
- Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền .
- Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về (Kiều)
- Em tưởng nước giếng sâu em nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây. (ca dao).
2.3.3. Nhân hóa là hiện tượng nghệ thuật sử dụng từ vốn chỉ thuộc tính, khả năng của con người chuyển sang biểu thị thuộc tính, khả năng của đối tượng không phải người.
- Vì sương nên núi bạc đầu
Biển lay bởi gió, hoa sầu vì mưa (ca dao)
Hoặc trò chuyện, bày tỏ với một đối tượng không phải người:
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương (ca dao)
2.3.4. Phúng dụ là một ẩn dụ được phát triển bao trùm toàn bộ tác phẩm, thường mang tính chất ngụ ý. Ðây là sự tổ chức các hình ảnh sinh động, cụ thể để biểu thị một ý niệm về triết lí, nhân sinh dựa trên cơ sở liên tưởng những nét tương đồng giữa các hình ảnh sinh động và ý niệm về triết lí nhân sinh. Vì vậy, phúng dụ bao giờ cũng có 2 ý nghĩa: ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa bề sâu.
- Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
- Con kiến mày leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào
Con kiến mày leo cành đào
Leo phải cành cụt leo vào leo ra
Những bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, Con cáo và tổ ong, Bài ca sợi chỉ, Nhóm lửa... của Hồ Chủ Tịch đều được viết theo biện pháp phúng dụ. Loại này thường được sử dụng trong thơ, truyện ngụ ngôn.
2.3.5. Tượng trưng. Khi hoán dụ, ẩn dụ được sử dụng quen thuộc, được cố định lại trong tư duy của con người, trở thành hình ảnh có tính chất ước lệ, được gọi là tượng trưng. Chẳng hạn, chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình, diều hâu tượng trưng cho chiến tranh; tùng, cúc, trúc, mai làm người ta liên tưởng đến phẩm giá của con người. Con cò trong ca dao thường tượng trưng cho thân phận vất vả của người phụ nữ, người nông dân hiền lành, chất phát. Hình ảnh con cò được thể hiện thật cảm động trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo seo mặt nước buổi đò đông.
2.3.6. Khoa trương là lối dùng từ cố ý thay đổi kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật nhằm đạt đến mục đích làm rõ bản chất của đối tượng và tăng hiệu quả biểu hiện:
Chìm đáy nước cá lờ lờ lặn.
Lững lưng trời nhạn ngẫn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi khiếp vía Hằng Nga giật mình.
 (Cung oán ngâm khúc)
Trong truyện Lang Rận, Nam Cao miêu tả bộ mặt của Lang Rận qua cái nhìn của bà Cựu: "Cái mặt ấy cho dù mỗi ngày có rửa ba lượt xà phòng, bà Cựu trông thấy vãn còn buồn nôn"
2.3.7. Nhã ngữ. Ngược lại với khoa trương. Ðây là lối dùng từ cố ý giảm đi mức độ của kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật, hiện tượng nhằm thể hiện một tình cảm nào đó và thường được sử dụng để nói về cái chết:
- Bác đã lên đường theo tổ tiên (Tố Hữu)
- Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Nguyễn Khuyến)
2.3.8. Phản ngữ vận dụng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả:
- Ðức chúa trời của chúng mặt Sa Tăng. (Chế Lan Viên)
- Anh đã chết rồi, anh còn sống mãi (Tố Hữu)
2.3.9. Chơi chữ là cách tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp nhằm tạo ra một phần tin khác với phần tin cơ sở. Phần tin khác này mang nghĩa hoàn toàn mới, bất ngờ mà về bản chất không liên quan gì với phần tin cơ sở.
- Bà già đi chợ cầu Ðông
Bói xem một qủ có chồng lợi chăng
Ông thầy xem quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. (Ca dao)
-Dỡ dang dang dỡ vì sông
Ngày làm công nhật đêm trông dạ chàng (ca dao)
- Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non (ca dao).
4. Xét từ góc độ cú pháp
 Các phương tiện cú pháp như câu, điệp từ, chấm câu, câu nghi vấn, câu cảm thán..cũng gíúp cho lời văn nghệ thuật có sức truyền cảm nhằm diễn đạt ý tình của nhà văn:
- Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
- Bạc phơ mái tóc người cha. (Tố Hữu)
- Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị (Tế Hanh)
- Cỏ bên trời xanh một sắc Ðạm Tiên (Chế Lan Viên)
- Màu thời gian xanh xanh,
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
 (Màu thời gian. Ðoàn Phú Tứ)
Các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Việc nắm bắt các phương tiện trên chỉ mới là cơ sở để hiểu lời văn nghệ thuật. Ðiều quan trọng là phải phát hiện những phương tiện đó được nhà văn vận dụng cụ thể như thế nào để tạo nên lời văn nghệ thuật.
IV. CÁC THÀNH PHẦN LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
Có thể chia lời văn nghệ thuật ra thành lời tác giả và lời nhân vật hay lời trực tiếp và lời gián tiếp.
1. Lời tác giả và lời nhân vật.
 Lời tác giả thường chính là lời trần thuật hoặc miêu tả còn lời nhân vật là lời mà nhân vật trực tiếp nói lên trong tác phẩm.
Việc phân biệt như trên thực ra chỉ có tính chất ước lệ, tương đối bởi vì mọi lời văn trong tác phẩm thực chất đều là lời của tác giả. Mọi lời nói của nhân vật đều do tác giả hư cấu, sáng tạo nên. Tuy nhiên, sự phân biệt này vẫn có một ý nghĩa nhất định.
Ơí đây, có sự khác biệt giữa lời nhân vật trong văn học cổ và lời nhân vật trong văn học cận, hiện đại. Trong văn học cổ, lời nhân vật thường không được cá tính hóa rõ nét, thể hiện bản chất của nhân vật mà thường do sự gán ghép từ những suy nghĩ riêng của tác giả. Trong văn học cận, hiện đại, lời nhân vật được tác giả tôn trọng. Tác giả thường để cho nhân vật nói năng phù hợp với trình độ, suy nghĩ của chính họ. Nhân vật nói theo giọng điệu riêng của mình chứ không phải theo suy nghĩ chủ quan của tác giả.
2. Lời trực tiếp và lời gián tiếp.
Lời trực tiếp chủ yếu là lời nhân vật và một bộ phận lời của tác giả thể hiện một cách trực tiếp trong tác phẩm. Lời trực tiếp trong tác phẩm chủ yếu là những câu đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật khác. Có thể kể đến một số lời trực tiếp.
Lời trực tiếp phù hợp là lời mà nhân vật nghĩ sao, nói vậy. Lời trực tiếp không phù hợp là lời nhân vật nghĩ một dằng, nói một nẽo, nghĩ ít, nói nhiều hoặc ngược lại. Chẳng hạn, đoạn Kiều suy nghĩ trước khi khuyên Từ Hải ra hàng và những lời của Kiều nói với Từ  Hải. Ơí đây, cần hiểu lời nói của nhân vật không phải bằng câu chữ mà cần phải thấy ẩn ý, ý định của tác giả và nhân vật.
Lời gián tiếp là toàn bộ lời văn của tác giả hay người trần thuật có chức năng trình bày sự vật, hiện tượng như ngoại hình, môi trường, phong cảnh, sự kiện...vốn không tự nói được, được nói lên trong tác phẩm.
Theo Bakhtin, lời gián tiếp có thể chia làm 2 loại: lời gián tiếp một giọng và lời gián tiếp 2 giọng.
Lời gián tiếp một giọng là lời tái hiện hay bình phẩm các hiện tượng của thế giới theo ý nghĩa khách quan vốn có của chúng theo ý đồ của tác giả, không liên quan gì đến ý thức, suy nghĩ của người khác về chúng. trong văn học dân gian và văn học cổ, các tác giả thường sử dụng hình thức này. Lời gián tiếp hai giọng là lời tái hiện, bình phẩm các hiện tượng, hướng tới lời và ý thức người khác, tranh luận, phản bác hay đồng tình với chúng. loại này có thể có các dạng lời nửa trực tiếp, lời gián tiếp của người kể chuyện và lời gián tiếp phong cách hóa.
Tùy theo từng loại tác phẩm khác nhau, hai loại lời văn trên có vị trí, vai trò khác nhau. Nếu như trong tác phẩm tự sự ì, lời gián tiếp giữ vai trò chủ đạo thì trong loại tác phẩm kịch, lời trực tiếp lại giữ vai trò chủ đạo và hạn chế tối đa lời gián tiếp. Trong loại tác phẩm trữ tình, sự phân bố 2 thành phần trên phức tạp hơn nhưng điều quan trọng trong lời văn tác phẩm trữ tình không phải ở 2 thành phần đó mà chủ yếu được thể hiện ở nhịp thơ, câu thơ, luật thơ...