Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Mộng mị


Lan man trên những câu chuyện, tình cờ đọc được những dòng tâm sự hợp với tâm trạng của mình. Lại một lần nữa, người học Văn lại mộng mị liên tưởng về những bài thơ, những kiến thức đã học. Một Nguyễn Du viết "Long Thành cầm giả ca" nổi tiếng phải mất khá nhiều dòng để mô tả lại quang cảnh trái ngược trong cuộc sống khi đối lập với cảnh giàu sang, yến tiệc với cảnh đói rét, nghèo hèn:
"Thành Thăng Long nhớ từ thuở nọ 
Bậc giai nhân tên họ ai hay 
Ðàn cầm thánh thoát mấy dây 
Khắp thành quen miệng gọi ngay Nàng Cầm 
"Cung Phụng khúc" xưa ngâm trong Nội 
Phổ nên chương tiếng nổi một thời 
Nhớ ngày đương độ vui chơi 
Giám hồ yến tiệc gặp người tài hoa 
Tuổi hăm mốt nõn nà lộng lẫy 
Gió xuân êm hây hẩy bông đào 
Men tô duyên não nùng sao 
Nỉ non năm tiếng thấp cao tuyệt vời 
Theo tay ngọc lòng người ủ rũ 
Tiếng bổng trầm to nhỏ miên man 
Khoan như gió lướt thông ngàn 
Trong như tiếng hạc lạc đàn kêu sương 
Mạnh như sấm phũ phàng xé đá 
Tiến Phúc bia nổ phá ầm ầm 
Buồn như khúc Việt ai ngâm 
Nỗi lòng Trang Tích âm thầm mà đau 
Ðiệu êm ấm nghe lâu chẳng mỏi 
Chính khúc này đại nội triều xưa 
Tây Sơn quân tướng thẫn thờ 
Ngả nghiêng đến sáng còn chưa thỏa lòng 
Quăng lụa thưởng tây đông tíu tít 
Vàng tựa bùn cứ việc vung tay 
Công hầu hào khí đua say 
Ngũ lăng niên thiếu một bày sá chi 
Dạo khúc xuân diễm kỳ lả lướt 
Băm sáu cung thánh thót xinh xinh 
Tràng An treo ngọc liên thành 
Phẩm cao vô giá, tài tình riêng ai 
Thoảng hai chục năm trời từ đấy 
Tây Sơn thua, ta trẩy Nam Hà 
Long Thành gang tấc còn xa 
Ðiệu xưa nhớ mấy cũng là đành thôi 
Tuyên phủ sứ lại mời dự tiệc 
Thiếu chi người mày biếc má hồng 
Cuối bàn phảng phất não nùng 
Một nàng đầu tóc hình dung bơ phờ 
Mình gầy võ mày thưa duyên nhạt 
Ai biết nàng oanh liệt xưa kia 
Khúc đâu lệ chảy đầm đìa 
Khiến người nghe những đê mê xót thầm 
Chợt nhớ lại bao năm chuyện cũ 
Từng bên ai vui thú hồ xưa 
Thành tàn duyên cũng xác xơ 
Ngậm ngùi mấy cuộc biển mờ dâu xanh 
Rồi một sớm bại thành là thế 
Cảm khúc ca trời để một người 
Trăm năm một thoáng bao dài 
Ngậm ngùi chuyện cũ cho đời buồn đau 
Nam về, mái đầu đã bạc 
Người đẹp xưa cũng khác hình xưa 
Giương đôi mắt ngó mà mơ 
Thảm thay ai biết bây giờ là ai"
Nhưng tất cả cũng chỉ có thể, cuộc sống xưa nay vốn đã vậy. Trong lòng xã hội TBCN xưa nay đã tồn tại sự bất công và đối lập rõ rệt giữa hai đẳng cấp giàu nghèo trong xã hội. Ở Trung Quốc và cả ở nước ta, người ta nói mong muốn đạt tới một xã hội "dân chủ, công bằng, văn minh" nhưng thực sự tất cả chỉ tồn tại trên lý thuyết. Rất ít người dám nói lên sự thật nhưng hầu như ai cũng hiểu bản chất của sự thật ấy. Người ta chấp nhận nó (nói đúng hơn là cam chịu) hơn là tìm cách chống đối vì vẫn có khá nhiều người luôn tin vào số phận. Người ta nói: "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời" nhưng thực chất thì "một người làm quan, cả họ được nhờ" và đương nhiên là "giàu vẫn giàu" mà "nghèo vẫn hoàn nghèo". Có những gia đình khổ mãi và cũng có gia đình con cháu họ cũng sẽ sướng mãi. 
Đọc tác phẩm văn học, người kể đôi khi hòa nhập vào nhân vật để phát ngôn cho những tư tưởng hay triết lí của mình. Ta thấy rất rõ trong dòng văn học với những tác giả lớn là Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,... Tất cả những vấn đề đó ai khá nhiều người nhận thức được nhưng để viết lên thành lời thì khó có thể, thậm chí nói là hiếm. Các cụ đi trước đã hiểu, thì thế hệ đi sau vẫn nhận thức được trọn vẹn vấn đề này. Chí có điều, trong cách nói và cách thể hiện có sự chuyển biến rõ rệt. Khái quát vấn đề một cách nhanh gọn và mang nhiều nội dung hơn. Hãy đọc đoạn trích dưới đây và nghĩ....
"Có những đứa trẻ con: "Con không uống sữa đâu, sữa này nhạt lắm"
Có những đứa trẻ con đứng dựa đầu vào cửa chờ mẹ đi chợ về mang cho một củ sắn...
Có những người sinh ra đã có tất cả và có những người sinh ra chẳng có, thậm chí là cả bố mẹ....
Có những bữa tiệc trên thành phố những món ăn ê hề chỉ để cuối cùng đổ cho lợn... hoặc để người ta uống rượu say và nôn hết ra...
Có những bữa tiệc ở nông thôn người ta ăn cơm với rau muống luộc chấm nước muối...
Có những cái chết đau đớn và không đau đớn..."
(Trích" Em muốn ngủ với anh")
Truyện khá ngắn, hãy đọc một lần xem mình có rung động... hay không?


Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

THẦN THOẠI ẤN ĐỘ



THẦN THOẠI  ẤN  ĐỘ
Thần thoại Ấn Độ  là sáng tác dân gian truyền miệng của nhiều chủng tộc, nhiều địa phương  kế thừa  lẫn nhau trong quá trình phát triển đất nước. Đó là một thế giới thần  thoại kì ảo, được giữ trong các tập sách Veda, Brahmana, Upanisand, Purana, Phật thoại Budda…
Thần thoại Ấn Độ phát triển qua nhiều thời kỳ.
Trước khi người Arian xâm nhập Ấn Độ thì các chủng tộc ở đây tôn thờ và ca ngợi thần núi,  thần sông,  thần cây cối,  thần súc vật, thần rắn (Naga), thần bò  mộng (Nandi), thần cổ  thụ (Yatsa)... và ma quỷ yêu tinh khác theo kiểu tô tem.
Đặc biệt họ tín ngưỡng thần Mẹ và thờ cúng âm lực, coi âm vật – bộ phận sinh dục nữ (Yoni)  là nguồn gốc của mọi sáng tạo. Bên cạnh Yoni, còn thờ dương vật (Linga), giống như người Ai Cập cổ thờ dương tính Osiris, người Hi Lạp cổ thờ Phallus. Thần Yoni và Linga được tạc bằng đá hoặc  nặn bằng đất sét với hình trụ có chóp tròn (hoặc tháp nón) đặt trên  bệ hình  tam giác hoặc hình tròn. Ngày nay trên đường phố, vườn hoa người ta còn thấy các bức tượng đó. Người Ấn  Độ xưa còn đeo hình  Linga ở cổ để trang điểm, khi làm lễ cầu tự, họ trang hoàng lộng lẫy cho các bức tượng trên, đó là ý niệm về sự sinh tồn. Họ cho rằng sự sinh sôi nảy nở trong trời đất đều do đực và cái kết hợp với nhau. Đó cũng là quan niệm duy vật thô sơ nhưng dần dần bị thần bí hoá.
Đến thời kỳ Veda (khoảng 1500  năm trước CN) khi người Arian vào đất  Ấn  và hoà  hợp với  các chủng  tộc khác thì thần thoại phát triển phong phú đa dạng và có hệ thống hơn.
Tăng lữ Bà la môn bắt đầu chú ý ghi chép lại những chuyện thần thoại rải rác trong các bộ tộc trong các  địa phương rồi sắp xếp có hệ thống trong bộ kinh Rig Veda.
Đó là những câu ca,  bài hát ca ngợi các lực lượng thiên nhiên mà họ tôn thờ và sùng bái.
Lời hát và cảm xúc của người Arian trong sáng,  hồn nhiên, chân thực và lành mạnh, trí tưởng tượng của họ bay bổng diệu kỳ. Các thần linh chẳng khác gì con người, họ rất gần gũi và dễ dàng đáp ứng lời cầu nguyện của con người. Các thần cũng thích đi lang thang, du mục, cũng chăn bò vắt sữa, yêu nhau và sinh con đẻ cái.
Thần thoại Ấn Độ là những bức tranh chân thực tuyệt đẹp miêu tả thiên nhiên nơi người Arian đi qua và sinh sống.
Thần thoại  Rig Veda  phản  ánh thời  thơ ấu Ấn Độ, như Karl Marx nói về Thần Thoại Homer rằng “Nó phản ánh cái đẹp, phản ánh thời kỳ ấu trĩ một đi không trở lại của loài người”.
Bước sang thời kỳ  hậu Veda, chế độ đẳng  cấp ngày càng được cũng cố và phát triển, là quá trình hình thành tôn giáo Bà la môn và triết học duy tâm thần bí. Do vậy, thần thoại Ấn  Độ từ đây trở nên phức tạp, tối tăm, trừu tượng, huyền bí và ngày càng xa rời cuộc sống con người.
Lúc đầu, bất cứ vị thần nào trong Rig Veda cũng có quyền lực như nhau, đều sáng tạo ra của cải vật chất,  phục vụ đời sống con người và được con người ca ngợi, tôn thờ như nhau.
Về sau, người ta qui tất  cả quyền lực  của các thần vào một đấng sáng tạo tối cao.  Đó là quá trình từ đa thần giáo (polytheism) chuyển sang nhất thần giáo (monotheism)  trong lịch sử tôn giáo nói chung.
HỆ  THỐNG THẦN THOẠI  RIG VEDA
Veda do từ gốc là Vid trong tiếng  sanskrit có nghĩa là “hiểu biết”, hiểu biết xâu xa về mọi mặt. Người Ấn Độ cổ xưa quan niệm rằng khi con người ra đời thì thần thánh ban  cho sự hiểu biết rồi. Sự hiểu biết đó cứ thế  mà phát triển liên tục. Người Ấn Độ rất coi trọng sự hiểu biết, họ có câu châm  ngôn sau “Hiểu biết thật sự là hiểu biết có thể đưa ta tới tự do “
Những hiểu biết có được đều đã sưu tập trong bộ  thần ca Veda. có thể Veda ra đời khoảng  từ 1500 đến 1000 năm  trước công nguyên.
Thần ca Veda có 4 tập, trong đó tập Rig Veda mang tính chất văn học đậm đà nhất, chứa đựng nhiều  truyện thần thoại và ra đời sớm nhất.
Rig có nghĩa là “tụng niệm”. Ba tập sau  có các tên  là: Sama Veda (ca vịnh), Giagina Veda (tế tự) và Alhava Veda (phù chú, ma thuật )
Sau đây, chúng  ta lần  lượt tìm  hiểu một  số thần thoại trong  RIG VEDA
1.      Nhóm thần vũ trụ-thiên nhiên
Đầu tiên là thần Trời và Đất sáng tạo muôn loài.
Trời Cha – Dyaus (người Hi lạp có Zeus hoặc Jupiter).
Đất mẹ – Addidi.
Dyaus và Addidi lấy  nhau  sinh  ra  Aditya – đây là  tất cả các  loại thần linh.
Các Aditya điều hành mọi sinh hoạt trong trời đất và vũ trụ, họ ở khắp 3 cõi – trời, không trung và đất. Trời do thần Mặt Trời là Surya cai quản, không trung do thần Gió Vayu và Đất-hạ giới do thần lửa Agni cai quản.
Thần Lửa Agni được coi là vị  thần quan trọng  có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người cho  nên Agni được ca ngợi  rất nhiều. Trong Rig Veda có hơn hai trăm bài ca tụng thần Lửa Agni.
Agni có thân hình màu đỏ và màu vàng, có hai đầu bảy lưỡi, tay cầm một chiếc rìu, một ngọn đuốc, một cây quạt và một chuổi hạt. Agni ngồi trên cổ xe do bảy con ngựa hồng kéo. Khói là cờ, gió là bánh xe. Agni có mặt khắp ba cõi, ở mỗi nơi Agni có hình dạng và nhiệm vụ khác nhau. Lửa ở hạ  giới có sứ  mệnh làm trung gian giữa con người và thần linh. Lửa thiêu đốt lễ vật  dâng lên trời. Lửa ở trên trời giúp cho  thần Surya toả ra sức  nóng chiếu khắp vạn vật. Lửa ở không trung  giúp thần Indra làm ra  sấm sét. Agni được coi là đấng-thâm-nhập-khắp-nơi, biết được mọi việc, soi sáng khắp nơi, đốt cháy được tất cả mọi vật, dù sạch sẽ hay vật dơ bẩn. Agni khi hung dữ,  lúc dịu dàng,  sẵn sàng cung cấp đồ ăn thức uống cho loài người. Agni được coi là người bạn tốt  nhất “chúa của cải” “người chế  tạo và ban phát thức ăn”.  Về sau tôn giáo Bà la môn biến Agni thành thầy cúng-cây cầu nối Trời và Đất, thần và người trong các buổi hiến tế.
Agni còn tham dự đám cưới, ma chay, lễ tết, hội hè. Thần chứng kiến lễ cưới: hai vợ chồng trẻ  phải đi bảy vòng quanh đống lửa đốt bằng phân bò khô và đọc 7 lời thề chung thuỷ.
Thần Agni thiêu huỷ thể xác con  người để hoàn  trả lại cho thế giới vật chất cái “ảo ảnh tạm thời”, giúp con người trở về chốn vĩnh hằng của thần thánh, chết là giải thoát. Thần Lửa là vị tu sĩ cao nhất ban phúc lành cho người. Thần tiêu diệt mọi thứ uế tạp và theo dõi đạo đức con người. Hàng năm hai kỳ tết Xuân và Thu (Holy và Divapati), dân chúng đốt những đống lửa lớn gọi là lửa Holy, thắp nhiều nến để xua đuổi yêu quái và tội lỗi .
Thần gió Vayu cai quản không  trung. Thần là hơi thở của lửa, sinh khí của vũ trụ, mạch sống  của muôn loài. Thần có sứ mệnh làm trong sạch bầu trời  và cùng với  lửa chuyển lễ  vật đến thần linh. Vayu và thần  Mưa-Sét  Indra  có  khi  hoà làm một cai quản không trung. Đó là vị thần màu trắng  toát, hùng dũng mang cung tên cưỡi xe bằng  vàng có  ngựa kéo  bay khắp  không trung. Ngoài tính chất hùng mạnh,  nhanh nhẹn,  sinh động, Vayu còn là vị thần đa tình, chuyên rủ rê  ăn nằm với các vũ nữ thiên thần. Vayu đã ăn nằm với vũ nữ Angiana, đẻ ra giống khỉ Hanuman-nhân  vật có tài thần thông biến hoá, có thuật phi hành,  được miêu tả trong các sử thi Ramayana  Mahabharata .
Thần Surya (mặt  trời)  cai  quản thiên  giới. Surya do chữ Sur hay Svar (tiếng Sanskrit ) có nghĩa sáng  chói (tiếng Anh : sun). Thần gây ra ban ngày, là con mắt của vũ trụ,  tồn tại mãi mãi. Surya có thân hình màu đồng đỏ,  tóc và râu màu vàng,  cưỡi xe 7 ngựa hồng kéo rất  dữ tợn. Thần đội  vương miện,   đeo nhiều vòng toả ánh hào quang chói lọi. Thần đẻ ra  Manu – con người đầu tiên của trần thế. Manu lại đẻ ra Iksuacu – người sáng  lập triều đại Mặt Trời, chàng ta lại sinh ra một trăm con trai.
Trong hệ thống thần vũ trụ – thiên nhiên, còn có các thần linh khác như thần Varuna (bầu trời), thần Soma (rượu), thần Chandra (mặt trăng), thần Rudra (bão táp), nữ thần Usa (rạng đông ) ..
2.  Nhóm thần sáng tạo thế giới và thuỷ tổ loài người
Thần thoại Ấn Độ  miêu  tả  một  số  mẫu người sáng thế như Toastri (thần Rèn),  Burusa (người khổng lồ),  thần Manu (thần Nguyên thuỷ , thủy tổ loài người ) …
Hãy kể về thần Manu.
Manu có nghĩa là « người » (Latin :Humanus, Anh: Human).
Manu là con của đấng tối cao  Brahma. Thần  Brahma tự tách mình ra hai nửa đực,   cái hoặc âm và dương. Hai nửa kết hợp nhau sinh ra Manu .
Manu làm ra bộ luật Manu, theo luật đó mà cai quản thế giới cổ sơ.
Buổi sáng kia, Manu rửa tay trong dòng nước, bỗng thấy có con cá bơi tới, Manu bắt lấy – cá nói  “Hãy nuôi ta  rồi có ngày ta sẽ cứu sống người. Sắp đến ngày xảy ra nạn hồng thuỷ, lúc đó ta sẽ cứu người thoát chết “.
Manu bỏ cá nuôi trong chậu.Cá lớn nhanh. Manu chuyển cá sang thùng, rồi sang hồ,  từ hồ chuyển sang sông Hằng,  từ đó ra biển, ca cứ lớn mãi. Theo lời cá, Manu đóng sẵn một con thuyền. Khi cơn lũ lụt xãy ra,  Manu gọi cá và ngồi vào thuyền. Manu buộc thuyền vào mõm cá. Cá đưa thuyền vượt  qua dãy núi  HimAllahya đến ngọn núi cao nhất. Theo lời cá dặn, Manu buộc thuyền vào gốc cây, ngồi chờ nước rút. Sau khi nước rút,  mặt đất trơ trọi, không một sinh vật nào sống sót. Manu thèm khát có đồng loại bèn cầu nguyện Brahma, một cô gái xuất hiện. Hai người ăn ở chung chạ, cùng lao động sinh sống và sinh hạ một đứa con trai.
3. Nhóm thần tinh thần – tình cảm – thần tình yêu Kama
Giống như Eros của  Hi  lạp, Cupidon của  La mã, Kama là thần tình yêu. Cuộc  đời chàng là  một  trong những truyện thần thoại Ấn Độ  hay nhất.  Lúc đầu, Kama  chỉ  là  một  ý  niệm  về  nguồn gốc vũ trụ và muôn loài. Người Ấn Độ cổ tin rằng sự sinh sôi  nảy nở trong trời đất là do  sự phối hợp giữa  giống đực  ( purusa ) và  giống cái (prakriti). Hai giống ấy có ở khắp nơi  và luôn luôn tìm gặp nhau theo “ý muốn tự nhiên” – tức là Kama.
Đến người Arian,  họ quan niệm Kama là sự vận động đầu tiên của vũ trụ, sau đó chuyển vào cuộc sống,làm phấn chấn và lôi cuốn muôn loài, muôn vật. Bộ kinh  Rig Veda (vệ đà) có  đoạn “Kama là mầm mống của lòng người, của trí tuệ, là sợi dây ràng buộc cái bản thể với cái không bản thể “. Họ coi Kama là vị thần có tất cả trước mọi loài. Người đời luôn  luôn ước mong Kama đến  với mình. Trong buổi tế lễ,  người cầu nguyện: ” Hỡi Kama  vị thần có mũi tên bắn trúng đích. Cánh tên là nỗi sầu  muộn, lòng tên là mong mỏi, mũi tên là dục tình, mong thần hãy xuyên qua trái tim con.
Kama được miêu tả như một chàng trai tuấn tú ngồi trên chiếc xe do chim vẹt kéo, cầm chiếc cung,  cánh  cung làm bằng cây mía uốn cong, dây cung làm bằng đàn ong mật kết cánh với nhau, mũi tên làm bằng hoa xoài mềm mại. Chàng có vợ là nàng Rati  (có nghĩa là: say đắm) và bạn chàng là chúa xuân Vasanta, đi theo chàng còn có các chàng trai mục đồng Gandarva và các vũ nữ Apsara.
Thần Tình yêu được miêu tả như một biểu hiện độc đáo của nghệ thuật dân gian Ấn Độ. Thiên nhiên  gắn liền  với tình cảm con người. Kama trở thành nguồn trữ tình lai láng, đắm đuối của con người và là lực lượng đáng kể chống lại lối tu hành khổ hạnh. Các vị thần linh, giáo sĩ đạo Bà la môn và Hindu, kể cả chúa tể Brahma đã nhiều phen điêu đứng vì mũi tên của Kama.
Truyện kể rằng: “Taraka là  con quỷ có  uy lực ghê  gớm khiến cả đấng tối cao Brahma cũng phải  kính nể. Nó bắt thần Brahma truyền cho nó phép trường  sinh bất tử. Từ khi có phép đó nó trở nên kiêu ngạo, khinh rẻ các thần linh. Các thần muốn tiêu diệt Taraka nhưng biết chắc rằng  không có ai ngoài con trai của thần Siva sinh ra mới đủ sức tiêu  diệt nó. Nhưng khốn nỗi Siva theo chủ nghĩa khổ hạnh, không chịu lấy vợ. Các thần bàn cách làm sao cho Siva cưới Uma – con gái thần núi Himallahya. Kama nhận nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Chàng mang “vũ khí”, dẫn  đoàn tuỳ tòng và nàng Uma lên đỉnh núi Kailasa, nơi thần Siva đang ngồi tu luyện.
Uma được trang điểm lộng lẫy, nàng tìm mọi cách khêu gợi dục tình của Siva,   nhưng Siva không mảy may xao động, đôi mắt vẫn lim dim hướng  về  thượng  đế.  Chờ  đến  khi nàng Uma có sức quyến rũ và xinh đẹp tuyệt trần,  Kama gương  cung bắn thẳng mũi tên vào trái tim Siva. Thần Siva bàng hoàng, nhức  nhối trái tim, vùng đứng dậy, quắc mắt tìm kiếm xem kẻ  nào dám cả gan quấy rối.
Trông thấy Kama, thần mở to con mắt thứ ba trên trán,  phun lửa hừng hực đốt cháy Kama  thành tro. Nhưng trái tim Siva vẫn nhức nhối, ngọn lửa tình  trong người cứ  bừng cháy. Siva ẩn nấp vào bóng cây râm mát hòng dập tắt lửa  tình. Vô hiệu, vì  xung quanh có nhiều sơn nữ xinh đẹp đang nhìn  Siva khiến cho ngọn lửa càng nóng hơn. Thần chạy trốn xuống hồ nước, nước hồ lại càng sôi lên khi nàng  Uma đứng  trên bờ  hồ chờ  đón. Cuối  cùng Siva nhảy lên bờ. Nàng Uma chạy tới ôm chặt lấy  thần. Lúc ấy Siva mới cảm thấy lòng mình êm dịu. Thế là Siva lấy vợ và sinh con trai.
Sau khi thần Kama chết thế giới trở nên khô cằn, lạnh lẽo vì Thần tình yêu không còn  nữa. Thần  linh và  loài người đều vô cùng lo sợ. Mọi người lập  đàn tế  lễ cầu xin Siva cải tử hoàn sinh cho Kama. Nàng Rati goá bụa, đau khổ tìm nàng Uma  năn nỉ cầu xin Siva cho chồng sống lại. Siva đồng ý cho Kama sống lại nhưng phải chịu vô hình vô ảnh. Và Kama tồn tại mãi với muôn loài cho đến ngày nay.
Tết Holy vào dịp mùa xuân được coi  là ngày giỗ thần tình yêu Kama. Tục truyền  sau khi  Kama chết.  Người đời  lấy tro xác Kama hoà vào nước, nước  hoá ra màu đỏ tía. Từ đó người Ấn  Độ xem màu đỏ tía là màu hạnh phúc. Vào dịp tết Holy, nam nữ thanh niên dùng một thứ bột màu  hoặc nước đỏ  tía để xoa  lên mặt hoặc vẩy lên quần áo, chúc nhau hạnh phúc. Cô gái nào đã có chồng thì chấm một chấm đỏ giữa trán,  ghi nhận mình đã có hạnh phúc (nhưng ngày nay thì bất kỳ cô  gái nào cũng  có thể chấm  đỏ nếu thích). Thanh niên tổ chức nhảy múa, hát ca ngợi Kama và ca ngợi  những mối tình chung thuỷ của chàng hoàng tử Rama và  công chúa Sita, mối tình của chàng Krisna và Rada.
Trong đoàn tuỳ tòng của Kama, còn có các chàng trai thiên thần mục đồng Gandarva. Đó chính  là  hình ảnh thực của những thanh niên thổ dân ở miền Bắc Ấn Độ nơi có  phong cảnh hữu tình, có nhiều  rượu ngọt, thích ca hát nhảy múa – họ sống tự do, chuyên đi tìm bạn gái và kết hôn tự do không theo  phép tắc của gia đình và xã hội. Lối kết  hôn đặc biệt đó gọi  là tục Gandarva, về sau nhà nước nô lệ và phong kiến chỉ dành riêng tục kết hôn Gandarva cho vua chúa.
Các vũ nữ Apsara: apsara  có nghĩa là “lượn trong  nước”. Hình tượng này  giống như  nữ thần  Nymph trong thần thoại HiLạp, Lamã. Hoặc giống các tiên nữ trong thần  thoại Trung Quốc và Việt Nam. Apsara thường sống trong nước, thích bơi lội múa hát, có hình dáng rất đẹp. Các cô thường bị các chàng trai Gandarva trêu ghẹo, thu trộm quần áo khi các cô đang tắm dưới sông hồ. Apsara được coi là thần múa và thần khêu gợi dục tình.
Hình ảnh và điệu múa Hoan Lạc của Apsara phổ  biến rộng khắp vùng Đông Nam Á. Ở Trung Quốc có điệu múa “Nghê thường vũ y khúc” bắt nguồn từ điệu múa Apsara. Có người cho rằng  các động tác múa chèo Việt Nam cũng có thể bắt nguồn từ Apsara.
Trong hệ thống thần tinh thần, tình  cảm, còn có Yama (thần Chết) cũng là một vị thần quan trọng, nhiều quyền lực.
4 – Hệ thống bộ  ba thần  tối cao Brahma  – Visnu – Siva (gọi chung là : Trimuty)
4.1 Thần thoại Brahma
Brahma là đấng tối cao của thần  thoại Bà La Môn. Có nhiều nguồn gốc khác nhau đẻ ra thần  Brahma. Brahma là thuỷ tổ của văn học – nghệ thuật, kiến trúc hội hoạ ca  múa nhạc và ban phát tri thức cho nhân loại.
Brahma được miêu tả có 4 cánh tay,  tay thứ nhất cầm pho sách Veda, tay thứ hai cầm trượng,  tay thứ ba cầm cung,  tay thứ tư cầm bình nước. Đó là người có bốn đầu, cưỡi con thiên nga.
4.2. Thần thoại  Visnu
“Visnu” do từ gốc là “wish” có nghĩa là tràn lan, thâm nhập. Visnu là thần bảo vệ. Ngài có tới 24 hình ảnh và hàng chục kiếp hoá thân khác nhau. Hai hình ảnh thông thường nhất là Visnu nằm nghỉ  trên mình con rắn thần Sesa bồng bềnh trên mặt biển Ananta vô biên, hoặc Visnu đứng thẳng, 4 tay nắm gữi 4 vật: vỏ ốc, dĩa tròn, bông sen và cây chuỳ. Thần tích Visnu rất nhiều, đó là những kiếp hoá thân của ngài.Thường kể về 10 kiếp hoá thân: 5 kiếp vật cá, rùa, lợn, sư tử và ngựa, và 5 kiếp người: người lùn, dũng sĩ Parasurama,  hoàng tử Rama, anh hùng Krisna và đức Phật Budda.
4.3. Thần thoại Siva
Siva có  nghĩa  là  tốt  lành. Nhưng  tính cách thần lại giống như thần Rudra (Bão táp)   Indra (Sấm sét),   Marut (Giông tố). Thần Siva vừa ác vừa thiện,  có khi gây nỗi lo sợ cho con người, lúc khác  đem lại  niềm vui.  Thần có  nhiệm vụ phá huỷ và tiêu diệt vạn vật,   sinh linh nhưng sau đó lại  hồi phục sự sống và sức khoẻ cho muôn loài.
Hình tượng Siva được miêu tả: da trắng, tượng trương cho bản chất tinh khiết, ba con mắt chỉ mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa thế gian, có thể nhìn thấu quá khứ, hiện tại và tương lai. Mái tóc rối tượng  trưng thần gió, sông Hằng chảy từ  mái tóc xuống. Ngài có 4 cánh  tay tượng trưng 4 phương trời, thể hiện chức năng thống trị. Một  tay cầm  cây chĩa  ba thể  hiện ba chức năng: sáng tạo, huỷ diệt và bảo  vệ. Một tay cầm rìu  biểu hiện sức mạnh tuyệt đối, một tay ra  hiệu xua đuổi sự sợ  hãi và một  tay ban phước lành. Thuộc tính triết học của  Siva là phá huỷ nên thần được đồng nhất với thần thời gian và thần chết.
Một hình tượng khác của Siva cũng  khá quen thuộc. Siva đứng một chân theo điệu múa Tandarva (vũ trụ  đại hoà điệu). Chân phải đạp trên một  người lùn, chân trái nâng cao và chéo sang phải. Siva có 4 cánh tay, tay phải cầm trống,  tay trái cầm ngon lửa, tay phải dưới xoè ra và chĩa lên trời biểu thị một ấn quyết, tay trái dưới đưa chéo qua phải và bàn tay chĩa xuống đất. Người ta hiểu hình tượng Siva như sau:  
Tiếng trống  gióng lên, gọi con người trở về với tâm linh, ngon lửa là tri thức diệt trừ u tối, dấu ấn quyết là quyền lực tuyệt đối, chân đè lên người lùn chứng tỏ sức mạnh  Siva chế  ngự được  tội lỗi.  Một con rắn quấn quanh mình Siva tượng trưng cho tri thức  nội tại. Mái  tóc tượng trưng sức mạnh và các thứ trang sức trên tóc là biểu thị các đức tính cao quí.
Thần thoại về Siva còn nhiều, chứng tỏ địa vị có ưu thế hơn hẳn trong bộ ba Trimurti.
Ba vị thần tối cao được hiểu là ba thuộc tính của một quá trình. Sáng tạo – bảo vệ – huỷ  diệt diễn ra như  một chu kỳ liên tục. Người ta đã nhất thể hoá vị thần thành một bức tượng một đầu 3 mặt. Hình tượng đó là kết quả của sự hoà  hợp các giáo phái và trở thành truyền thống đấu tranh cho sự hoà bình hoà hợp giữa các dân tộc.
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ  CỦA THẦN THOẠI  ẤN ĐỘ
- Tác giả của thần  thoại Ấn Độ  là  các nghệ sĩ dân  gian ở các thời đại.
- Tập sách Rig Veda  vừa là bộ  kinh Bà La  môn,  vừa  là tác phẩm thần thoại đặc sắc nhất.
Trước hết nó chứa đựng  nhiều yếu tố hiện thực  như những bức tranh sinh  hoạt sinh  động và  chân thực  của người Ấn Độ  cổ xưa. Thần thoại  phản ánh  việc chăn  nuôi,   săn bắn trồng trọt, khai phá đất đai, chinh phục núi non sông hồ.
- Thần thoại Ấn Độ sử dụng thành  thạo các thủ  pháp tượng trưng và phóng đại.
Thiên nhiên được đưa vào làm tăng vẻ đẹp và chất trữ tình cho thần thoại. Núi HimAllahya hùng vĩ, sông Hằng trong xanh, những thảo nguyên mênh mông, những đàn súc vật tung  tăng với ánh mặt trời, cây cỏ hoa lá đua  nhau nở dưới nắng  xuân, ánh trăng soi trên hồ nước lung linh có những con thiên  nga vỗ cánh,   trên bờ suối con nai vàng ngơ ngác…
Đặc biệt nghệ thuật nhân cách hoá  thể hiện khiếu  thẩm mỹ và trí tưởng tượng thật đáng khâm phục của người Ấn Độ cổ xưa.
Đề tài của thần thoại Ấn  Độ rất phong  phú , bao gồm đủ mọi chuyện đời.
Về hình thức, thần thoại Ấn Độ rất đa dạng. Có thể thấy mần mống sử thi như các truyện kể về  thần Indra, hay hình thức kịch như cuộc đối đáp giữa hai anh em Yama và Yani, ngoài ra lại có nhiều đoạn văn xuôi và thơ trữ tình.
Bên cạnh những giá trị lớn lao đó, thần thoại Ấn Độ cũng có những hạn chế đáng lưu ý. Đó là tư  tưởng tôn giáo và triết lý thần bí chi phối quá mạnh đến thần thoại.Giáo sư Cao Huy Đỉnh trong cuốn “Tìm hiểu thần  thoại Ấn  Độ” đã nhận xét: “... mỹ cảm của người Ấn Độ bị hương khói của tôn giáo che mờ, bị tư biện triết học làm băng giá, bị phù chú và kinh kệ vùi dập. Chủ nghĩa duy tâm đã dẫn đến nguyên lí mỹ học phản hiện thực: lí tính siêu thực chỉ đạo cảm tính, cá nhân phải đồng hoá với vũ trụ, sự hưởng lạc cảm quan đi liền với chủ  nghĩa khổ hạnh. Cuộc đời  được miêu tả như trò chơi phù phiếm hay ảo mộng mà  thượng đế bày đặt ra để thử thách con người. Thượng đế là chân thực, trần thế là hư vô. Quan niệm về hiện thực như thế là bị đảo lộn”.
So sánh  thần thoại  Ấn  Độ  và thần  thoại Hy Lạp- La Mã, chúng ta thấy có một số điều khác biệt sau :
Trình  độ phát  triển tư  duy Ấn  Độ thể hiện trong thần thoại Ấn Độ có một độ cao nhất định nhưng  bị tôn giáo thần thánh hoá. Nội dung và lòng yêu cuộc sống, tinh thần đấu tranh bị bóp méo do đó hạn chế óc duy vật khoa học thực nghiệm, khiếu nhận xét lịch sử và tính năng động của nhân dân Ấn  Độ đã manh nha rõ rệt.
Ngược lại, thần thoại Hi Lạp có giá trị ở chỗ lý tưởng hoá con người,  mô tả  những con  người đẹp  nhất trong những con người. Hình ảnh Promete  người đưa  lửa cho loài  người, dũng sĩ Hercules, anh hùng Achille, Ulyse… vẫn là những nhân vật lý tưởng và ước mơ lành mạnh cao quí của con người. Thần thoại Hy Lạp cũng đề cao cái đẹp tự nhiên, hiến cho ta những hình ảnh đẹp, năng lực thẩm mỹ và lòng yêu đời.
Ở Hi Lạp,  khi tư tưởng triết học cùng thuyết vũ trụ học của các triết gia Ionian (thế kỷ VII trước CN) thì thần linh mất dần ảnh hưởng. Người ta chỉ trích,  chế nhạo thần linh cốt để mở đường cho những tìm tòi sáng tạo khoa học.
Trong khi đó, ở Ấn  Độ thế giới thần linh vãn giữ được uy thế mặc dầu những quan niệm khá duy vật vè vũ trụ như Atman và Brahman trong kinh  Upanisad.  Điều  này  chứng  tỏ tính kém năng động, tâm hồn trầm tư,  mộ đạo của  người Ấn đã kìm hãm  sự phát triển của nền văn  minh Ấn  Độ vốn  ban đầu  không kém gì nền văn minh Hi Lạp – La Mã .
KẾT LUẬN
Thần thoại Ấn  Độ phong phú, chan chứa chất trữ tình và tinh thần nhân đạo sâu sắc – đó là  truyền thống bất hủ của văn học nghệ thuật Ấn  Độ. Từ giai đoạn anh hùng ca về sau đến thế kỷ XX, các thế hệ văn nghệ sĩ Ấn Độ luôn luôn  lấy đề tài  thần thoại và mượn nó  làm phương  tiện miêu  tả. Các nhà thơ lớn như Kalidasa ở thế kỷ thứ V, Kabia ở thế kỷ XV-XVI,Tunxidat ở thế kỷ XVI-XVII, R.Tagore (1861-1941)…đã vận dụng thần thoại để miêu tả và đề cao cuộc sống tình yêu, đất nước giàu đẹp và nhân dân lao động nghèo khổ của mình, sáng tạo ra nhiều tác phẩm văn học xuất sắc.
Trái lại, thứ văn học tôn giáo ngày càng mờ nhạt và bị lãng quên trong thế giới huyền bí, hư vô.
Thần thoại Ấn Độ cũng có ảnh hưởng đến Việt Nam. Câu chuyện “Dạ thoa vương” trong cuốn “Lĩnh nam chích quái” chịu ảnh hưởng motip  quỉ vương Ravana của thần thoại Ấn Độ.

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013



CHUYÊN ĐỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT


Bài làm:
MÔ HÌNH NGHỆ THUẬT
BÀI THƠ “NGẬM NGÙI” CỦA HUY CẬN

Chiều, chính nó là một giao điểm của thời gian, là một dấu hiệu báo cho chúng ta biết rằng một ngày đang dần đi qua. Vạn vật cũng biến đổi theo và mang sắc thái riêng của nó khi trời chiều. Buổi chiều, cũng là thời gian đẹp nhất, lý tưởng nhất cho con người với những cuộc gặp gỡ, hẹn hò, tâm sự,... và cũng có những buổi chiều, con người lại bật lên nội tâm phong phú, êm đềm, hòa nhập cùng thiên nhiên, cây cỏ để dệt đan những lời ru ngọt ngào, đằm thắm cho giấc ngủ, mộng đời... của hiện tại, tương lai.... Chúng ta sẽ bắt gặp những cảm xúc rạt rào, đầy trữ tình nhưng không thiếu vắng cái buồn tênh trong bài thơ “Ngậm ngùi” của Huy Cận.

Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi! Hãy ngủ anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ...
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…

I. MÔ HÌNH CHI TIẾT

Mã ngôn ngữ
Nội dung biểu đạt
Ý nghĩa bao trùm
-      Nắng chiều chia nửa bãi, vườn hoang trinh nữ, lá rầu, nhện giăng sợi nhanh.
-      Em ngủ – anh “hầu” quạt.
-      Sự vận động của vạn vật báo hiệu một ngày đang dần đi qua trong sự buồn tẻ.
-      Lời vỗ về, yêu thương tha thiết, êm đềm, nhẹ như lời ru.
Bức tranh miêu tả đôi trai gái đang bên nhau, vỗ về nhau trong một buổi chiều thu đẹp nhưng buồn.
-      Lòng anh mở với chiếc quạt.
-      Chim mộng về, mộng bình thường.
-      Ru em, tiếng thùy dương mấy bờ.
Tấm lòng rộng mở của chàng trai và giấc mộng đẹp đến với đôi bạn trẻ. Đó là mộng của tuổi trẻ và tình yêu đang hòa vào lời ru nhẹ nhàng và êm ái của tiếng thùy dương.
Những cơn mộng trong giấc ngủ đến và hé mở ra một chân trời hi vọng về hạnh phúc tương lai.
-      Cây dài, bóng xế
-      Hồn em – đã chín mấy mùa thương đau.
-      Tay anh – em tựa, anh nghe nặng – trái sầu rụng rơi.
-      Thời gian trôi nhanh về cuối ngày.
-      Khúc hát não lòng bật ra từ suy nghĩ, cảm nhận của chàng trai.
-      Vì tình yêu, chàng trai sẵn sàng bên cạnh, chấp nhận tha thứ tất cả cho người con gái.
Hai người trở về với thực tại buồn đau, sầu muộn của tình yêu. Tấm lòng cao thượng của chàng trai là chìa khóa cho tình yêu. Nhưng đi kèm nó là một nỗi xót xa, ngậm ngùi.

II. THUYẾT TRÌNH MÔ HÌNH
Mở đầu bài thơ là cảnh một buổi chiều khi mà “nắng đã chia nửa bãi” và “tơ nhện đã giăng mau”. Cái cách cảm nhận của Huy Cận về buổi chiều thật là lạ vì sự xuất hiên ấy trong ánh nhìn thật riêng nhất, mang đầy tính hiện thực. Chân dung của thiên nhiên như đang lồng vào cảm xúc của con người. Mọi người đều nói đây là một buổi chiều thu “vì chỉ có chiều thu mới đẹp, buồn và diễn ra mau lẹ đến thế” (Phạm Văn Chữ).
Chiều đã đến! Chiều mang đến cho tác giả một cái buồn bã như dấu chấm than! Bởi vì, sắp qua hết một ngày, qua rồi những dư âm, hình bóng, một cuộc gặp gỡ, những giây phút vui vầy, hạnh phúc... Những phút giây đẹp hết sức đời thường. Do đo con người trong mỗi chúng ta ai cũng phải đặt mình trong cái tâm thế vừa buồn, vừa tiếc cái chợt đến, chợt đi, dùng dằng,... chợt mất... của ngày, rồi ngày tiếp nối...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau...
Nghĩ lại, không phải chỉ có con người mà cái buồn vẫn không buông tha, tạm biệt mà ngay cả "cỏ cây, hoa lá, con nhện" cũng đang đói điên cái điều tàn lụi đang đến. Thiên nhiên cũng biết trốn chạy điều buồn bã, tự nó, "Vườn cũng biết xếp lá và nhện giăng mau sợi buồn..." Cái hay của Huy Cận đã hòa nhập mình cùng với thiên nhiên đồng cảm với nhau trong cái ưu trầm, sâu kín của đời, cất lên tiếng nhỏ nhẹ với tiếng buồn... như thế!
Đọc hai câu thơ, ta bắt gặp một hình ảnh rất lạ: “lá rầu”. Cũng bắt nguồn từ sự buồn bã... nhưng Huy Cận rất khéo léo trong việc cấu âm, tạo từ, cắt tỉa cho đẹp chiếc "lá rầu". "Lá rầu" đọc lên nghe hay lắm chứ! Nó não ruột hơn, đặt chiếc lá rầu trong chiều buồn vẫn hay hơn, chiều vẫn mênh mang, mênh mang hơn. Và trong phong cảnh ấy, lời thơ của Huy Cận có lúc như là lời vỗ về, đầy thương yêu tha thiết, êm đềm, nhè nhẹ như một lời ru:
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây.
Khung cảnh của buổi chiều thu ấy sao mà vừa đẹp, lại vừa buồn đến như thế? Khung cảnh nên thơ ấy thật hợp cho đôi bạn trẻ tâm tình, hò hẹn. Họ say đắm bên nhau, vỗ về nhau và cùng đưa nhau vào giấc ngủ. Lời ru, không phải còn là của riêng con người nữa mà nó còn là của tiếng thùy dương (một loại cây cao lá lúc nào cũng rủ xuống) ở mấy bờ đang vọng lại. Họ say trong giấc ngủ và những cơn mộng đến:
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Những cơn mộng ấy, là mộng của tuổi trẻ và tình yêu. Mà mộng của những người đang yêu bao giờ cũng là mộng đẹp, nó hé mở cả chân trời hi vọng về hạnh phúc tương lai.
Khi Phạm Văn Chữ bình bài thơ “Ngậm ngùi”, đã có xúc cảm về những câu thơ cuối bài như sau : “…nếu như bài thơ dừng lại ở câu thứ tám sau dấu chấm lửng hoặc dẫn cảm xúc theo một chiều hướng khác. Bởi vì ngoại cảnh dù có hiu hắt, buồn vắng mà anh và em có nhau thì tình yêu vẫn thắng át đi tất cả. Nhưng không, khúc ru buồn sầu não đã cất lên từ bốn câu cuối bài” đã như chứng tỏ được sự dồn nén của bài thơ. Khi mà cây dài ra theo hình của bóng xế, thời gian còn lại của ngày rất ít ỏi, nó trôi thật nhanh như chẳng gì có thể ngăn lại được. Chính điều đó đã là cho con người cảm thấy ngẩn ngơ, nuối tiếc với những gì đang diễn ra.
Chàng ru cho nàng ngủ, tưởng chừng như sẽ  được cùng nàng trải nghiệm hết những giấc mộng thì bất chợt tỉnh giấc. Thực tại của thiên nhiên đưa con người về với thực tại cuộc sống, tình yêu của họ. Chàng cảm nhận được cái buồn bã của buổi chiều tàn ấy, xót xa khi cảm nhận tình yêu mà mình đang có và cất lên lời ru:
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau.
Tại sao nói về hồn em nhưng lại biểu hiện nó bằng từ “chín”? Hơn nữa lại chín tới mấy mùa “thương đau”?  Hỏi về hồn em nhưng cũng là để nói cho hồn anh, hồn chúng ta đấy. Tuổi xuân đôi mươi mà cõi hồn trải lắm nỗi thương đau đến thế thì hỏi còn gì là hương hoa, là ý nghĩa cuộc đời? Bởi vậy mà câu thơ kết bài cứ trĩu nặng lòng người:
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
Ý tưởng vả triết lí thơ đã dồn nén tất cả vào đây. Thì ra, ở chốn nhân gian này chỉ có buồn rầu và đau khổ! Nhà thơ đã khéo xếp đặt vào câu chuyện tình cả ba dạng thức tồn tại của mỗi sinh thể người: tỉnh thức, ngủ, và mộng. Một sự kết hợp thật hoàn hảo trong tính chỉnh thể hình tượng. Đó là cái cớ để bác lại người đời nông cạn, cứ cho rằng: tình yêu và tuổi trẻ là điều huyền diệu nhất, hạnh phúc nhất; tình yêu là vĩnh hằng và bất tử. Xin đừng ảo tưởng. Thì đây, người ta tỉnh và yêu: sầu; ngủ và yêu: sầu; đến mộng và yêu: cũng sầu!... Tất cả đều không thoát ra khỏi cái vòng kim của một chữ “sầu”.
Có thật không  “một trái sầu rụng rơi...?” Có lẽ câu trả lời sẽ là: “Có”. Bởi câu trên, tác giả đã thấy trong một cái nền buồn bã, “hồn em đã chín mấy mùa...” rồi. Cho dù đã chín mấy mùa đi chăng nữa thì chàng vẫn luôn yêu thương nàng. Phải chăng cái “trái sầu” ấy là ý tưởng của tác giả khi quay hướng cho mối băn khoăn về cuộc sống, nỗi e ngại cho điều nhận biết, linh cảm về một nỗi cách xa, lời chia lìa, tiễn biệt... hay không? Đọc câu thơ mà cảm thấy xót xa, ngậm ngùi cho cuộc tình này.
Các nhà thơ lãng mạn đương thời cũng đã nói đến nỗi đau thân phận con người. Nhưng Huy Cận là người quan tâm nhiều nhất, viết ra bằng nhiệt hứng dồi dào nhất. Ông luôn tìm tứ thơ và đặt cảm hứng vào mối tương quan giữa cái hữu hạn của cuộc đời với cái vô cùng vô tận, cái mênh mông rợn ngợp của không gian lẫn thời gian. Cảm thức thường xuyên thường trực về nỗi sầu nhân gian đã tạo cho thơ ông có một vùng thẩm mĩ riêng không ai có được. Và Ngậm ngùi” đã thẩm mỹ hoá nỗi sầu nhân gian ấy, xứng tầm tiêu biểu cho mảng thơ này. 
“Ngậm ngùi" được sáng tác vào năm 1939, có mặt trong Lửa thiêng”, tập thơ đầu của nhà thơ Huy Cận (1919- 2005), xuất bản năm 1940. “Ngậm ngùi” luôn được đưa vào các tuyển tập thơ, nhất là thơ tình. Phạm Duy, một nhạc sĩ trứ danh thời tiền chiến, đã phổ nhạc Ngậm ngùi” từ năm 1961. Có thể nói, “Ngậm ngùi” là một bài thơ sầu, một bài thơ tình bất hủ. Trong sự nghiệp thơ của Huy Cận, nếu Tràng giang” đứng ở vị trí thứ nhất thì Ngậm ngùi” phải được đứng ở vị trí thứ hai, liền ngay sau đó.


Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

NGHỆ THUẬT CỦA NGÔN TỪ


NGHỆ THUẬT CỦA NGÔN TỪ
I.                   Ngôn từ, chất liệu của văn học
Văn học là “ nghệ thuật ngôn từ”. Quan niệm này nhấn mạnh một đặc trưng của văn học (phân biệt văn và những loại hình nghệ thuật khác). Ở ta, có một thời giảng văn là giảng chính trị. Sau khi nắm được đặc trưng nói trên, việc truyền đạt các nội dung của tác phẩm văn học được thực hiện trên cơ sở bám lấy từ. Nhưng phương pháp dạy văn bám lấy từ (cho đúng với đặc trưng các bộ môn) thường được thực hiện hết sức thô thiển, máy móc, trong thực tiễn dạy văn của nhiều giáo viên văn, “bám lấy từ” có nghĩa là:
- Chỉ ra trong câu, trong đoạn của bài văn một số từ và nói rằng nội dung như thế này, như thế kia là ở những từ này, từ nọ (học sinh cũng làm như vậy).
- Tinh tế hơn, thì chỉ ra trong câu hoặc đoạn văn những mỹ từ pháp: điệp ngữ, ẩn dụ, đảo ngữ, so sánh, điệp âm, hoán dụ…
Đây là bám lấy từ một cách hình thức, là chủ nghĩa hình thức trong dạy văn, hiệu quả có khi còn tồi tệ hơn cách dạy nói chính trị hoặc xã hội học thoát ly văn bản. Đặc biệt học sinh thường bám lấy từ một cách hết sức vụng dại, ngô nghê.
Cái hay của bài văn không phải ở bản thân những từ và mỹ từ pháp ấy, mà chính là ở nội dung được truyền đạt một phần và chỉ một phần thôi nhờ vào những từ và mỹ từ pháp ấy.
Chỉ những câu thơ có “nhãn tự” thì chỉ ra được những “ nhãn tự” là đầy đủ ý nghĩa, những câu thơ như vậy là rất hiếm. Giáo viên nhiều khi chỉ làm công việc gọi tên những mỹ từ pháp trong bài văn. Điều quan trọng trong giảng văn là nói cho được nội dung đã khởi sắc hơn, lấp lánh hơn nhờ vào mỹ từ pháp như thế nào. Không nói được những điều này thì việc gọi ra tên những từ và mỹ từ pháp trở thành một việc làm vô nghĩa. Bám lấy từ chỉ là một việc làm vô nghĩa. Bám lấy từ chỉ là một cách để làm sáng tỏ nội dung. Còn nhiều cách khác. Giáo viên có thể tạo  ra nhiều liên tưởng bên ngoài văn bản, bên ngoài tác phẩm. Bám lấy từ chỉ là bước đầu để tiếp cận nội dung của bài văn có khi là ở “ sự im lặng giữa những từ”.
Cách dạy văn bám lấy từ như đã nói ở trên đương trở thành một tai họa phổ biến ở trường phổ thông, thực chất là một cách làm việc vu vơ, lười nghĩ.
“Văn học là nghệ thuật ngôn từ”. Ngôn từ không chỉ bao gồm từ, mỹ từ. Trong tác phẩm văn học, câu văn phải có hồn. Ngay trong một bài viết lý luận mà câu văn có hồn thì còn “văn học” hơn một bài thơ giàu hình ảnh nhưng câu thơ không có hồn (điều này có thể cảm nhận được rất rõ mặc dù nói cho ra được điều này không dễ). Câu văn có hồn là câu văn có giọng, ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của bài văn được chọn có thông báo nhiều điều quan trọng nhưng bài văn không có giọng đọc lên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm mình viết. Bắt được giọng đã khó, làm cho học sinh cảm nhận được cái giọng càng khó, công việc này đòi hỏi sáng kiến và tài tình của giáo viên. Về phương diện này quan điểm của nhà nghiên cứu văn học M.B. Khravchenko tiếp cận tác phẩm văn học như một “ kết cấu các giọng điệu”, như một “ hệ thống các ngữ điệu”, như một “gam ngữ điệu” là một luận điểm có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với công việc giảng văn. “Hơi văn”, “văn khí”, “giọng văn”…đó là những khái niệm rất cơ bản của các tác phẩm văn học. Người Pháp có câu “ Cest le ton qui commande la musique” ( Chính cái giọng chi phối bài nhạc). Ở những áng văn hay, cái giọng của câu văn mở đầu có ý nghĩa quyết định cho sự cảm nhận cảm hứng chủ đạo và nội dung của toàn bộ tác phẩm. Nhà văn Marquer có thuật lại sau khi viết xong truyện Giờ rủi ro, ông đã đầy đủ tư liệu để viết Trăm năm cô đơn nhưng ông không thể nào cầm bút viết vì chưa tìm được giọng. Mãi năm năm sau ông mới tìm được giọng thích đáng: đó là cách kể của một bà già nói về những chuyện hoang đường, siêu nhiên bằng một giọng hết sức tự nhiên. Chỉ khi ấy, tác giả mới viết được. Phải mấy năm mới tìm ra giọng. Hóa ra giọng kể có khi còn quan trọng hơn câu chuyện được kể rất nhiều! Muốn hiểu Truyện Kiều phải bắt được cái giọng của tác giả trong sáu câu triết luận mở đầu. Điều quan trọng trong đoạn mở đầu này không chỉ ở luật oái oăm, ác hại trong “cõi người ta”: tài mệnh tương đố, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh. Điều quan trọng hơn cả là cái giọng mỉa mai, hờn mát, đay đả của tác giả khi nói đến những luật này:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
Tác giả không thản nhiên ghi nhận cái luật oái oăm này. Thái độ tác giả bao hàm nhiều sắc thái. Từ “khéo là” có bao nhiêu nghĩa thì cái giọng của tác giả biểu hiện ở đây có bấy nhiêu sắc thái: mỉa mai, hờn mát, bỡn cợt, châm chọc… “Tài mệnh tương đố” không phải là tư tưởng của Truyện Kiều. Triết lý của Truyện Kiều là ở cái giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này, nói ở chữ “khéo là” xen vào câu “tài mệnh tương đố”.
“Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Cũng như cách phân tích ở trên, “bỉ sắc tư phong”, “hồng nhan bạc mệnh” không phải là tư tưởng đích thực của Truyện Kiều. Ở đây cái giọng của tác giả rất rõ. Trước luật cõi đời và luật của trời, Nguyễn Du là một người đáo để với cái giọng đay đả, đay nghiến của ông: “Lạ gì…” ở đây bộc lộ một thái độ dè bỉu, bực tức,  chán ngán. Khi ta nói “ lạ gì anh ấy” thì hoặc là ta dè bỉu, hoặc là ta bực tức, hoặc là ta chán ngán…anh ấy, chắc không phải là một thái độ thiện cảm.
Cái giọng văn của Nguyễn Du khi nói đến luật “hồng nhan bạc mệnh” bao hàm một thái độ đối với “trời xanh”, một cái giọng xẵng và có thái độ xấc. Với thái độ ấy và cái giọng ấy, nhà thơ có chửi luôn cả trời thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nếu như “ trời xanh quen thói” thì sự “ má hồng đánh ghen” không thể là một điều tốt lành. “ Quen thói “ có nghĩa là làm theo quán tính. Có thể nói “ quen thói hại người”, không bao giờ nói “quen thói giúp người”. Làm điều thiện, dù rất nhỏ bao giờ cũng đòi hỏi sự nỗ lực. Mỗi lần làm điều thiện là một lần nỗ lực mới. Có thể làm điều thiện theo quán tính, nhưng như vậy có còn là thiện nữa không?
Trong câu tục ngữ “ Ăn không nên đọi, nói không nên lời” thì “nói không nên lời” là một sự đau khổ của con người. Năng lực văn nhất thiết phải bao hàm năng lực nói nên lời. Có ý, có từ đấy nhưng vẫn lúng túng chưa thành câu, hoặc câu văn có thành thì tẻ nhạt, bởi vì còn thiếu cái quan trọng nhất: thiếu khẩu khí, thiếu hơi văn, chưa có ngữ điệu, giọng điệu thích đáng. “Vạ miệng” nhiều khi chỉ là do không tìm được một giọng thích đáng để trình bày chân lý. Khi người ta có cảm hứng, dường như giọng và ngữ điệu nảy sinh trước và từ ngữ dường như được gọi đến thể hiện ngữ điệu và giọng điệu thành lời, thành câu. Lời và văn hình thành như vậy thường rất hoạt. Người giỏi văn không chỉ là dồi dào ý, giàu từ ngữ mà còn giàu ngữ điệu, giọng điệu. Mỗi lần cần đến, có thể tìm được ngay giọng nói hoặc ngữ điệu thích đáng. Vả chăng, ý hình thành chưa rõ, chưa dứt khoát nhừo giọng điệu trở thành rõ hơn, dứt khoát hơn. Người dạy văn giỏi tạo ra nhiều ngữ điệu, giọng điệu thích đáng, đa dạng, ăn sâu vào cảm nhận của học sinh và đây là một phần quan trọng trong tiềm lực văn của học sinh. Cảm hứng nào, giọng điệu ấy; nhưng cũng có thể ngược lại, giọng điệu định hướng sự hình thành cảm hứng. Ở trường phổ thông, đặc biệt cấp cơ sở, học thuộc lòng để thuộc ngữ điệu, tiết tấu cũng như đọc diễn cảm để thấm các giọng điệu của bài văn là hết sức quan trọng. Cũng phải thể tất cho giáo viên văn đôi khi “nói trạng” ở lớp. Tuy có lan man ngoài đề nhưng sự giàu có ngữ điệu và giọng điệu ở người có tài “trạng” sẽ để lại sự cảm nhận của học sinh những điều có khi còn quý giá hơn kiến thức. Đấy là chưa nói không khí hào hứng tạo ra trong lớp hết sức cần thiết cho sự cảm thụ văn học. Nói trạng hay cũng là một tài năng.
“ Văn học là nghệ thuật ngôn từ”. Dạy văn không chỉ có dạy ngôn từ, còn có một mục tiêu cơ bản hơn là xây dựng và bồi dưỡng ý thức ngôn từ. Có ý thức về sức khỏe còn quan trọng hơn là có sức khỏe. Có ý thức về ngôn từ là có ý thức về tính tích cực chủ động và khả năng sáng tạo của mình trong việc tiếp nhận và sử dụng vốn ngôn từ của xã hội. Là người có ý thức - không cứ gì trong đọc văn hay đọc sách báo, mà ngay cả trong giao tiếp hằng ngày- thường xuyên nhặt nhạnh những từ ngữ độc đáo, những cách nói đích đáng, những cách diễn đạt thần tình làm giàu cho vốn từ ngữ của mình, thường xuyên tiếp nhận những giọng điệu, ngữ điệu làm giàu cho khẩu khí, văn khí của mình.
Để bồi dưỡng ý thức ngôn từ cho học sinh, ở những lớp dưới, có thể cho các em làm quen với những cách nói láy, chơi chữ tài tình. Ở những lớp trên, có thể phân tích từ nguyên của từ, cảm nhận sự lấp lánh nghĩa đen và nghĩa bóng trong ngôn ngữ, cảm nhận sự trả lại nghĩa đen cho từ được dùng theo nghĩa đen, giúp cho các em thử nghiệm việc xé những cụm từ cố định để làm sống lại nghĩa của từ bị lờn mòn trong cụm từ cố định…Chẳng hạn, thường ta nói “ đau lòng”, khi Nguyễn Du nói “ đau đớn lòng” thì cụm từ cố định “đau lòng” bị xé ra và đau đớn làm sống lại ý nghĩa đích thực của từ “đau”. Tìm những thủ pháp nhằm kích thích, bồi dưỡng ý thức ngôn từ của học sinh, đó là một lĩnh vực còn mới mẻ của giáo học pháp giảng văn và đương chờ đợi những tìm tòi, sáng kiến của giáo viên văn học.
Có thức ngôn từ là có ý thức về sức mạnh của ngôn từ. Hơn ai hết, các nhà văn có ý thức về sức mạnh này. “Tôi biết sức mạnh của ngôn từ…ngôn từ là tướng của đạo quân sức mạnh con người” ( Maiakovsky). Nghĩa của ngôn từ càng hèn kém đi thì xã hội càng ít thành đạt trong tất cả những biểu hiện của nó. Ngôn từ là chìa khóa cho “tất cả”.
II.                ĐẶC TRƯNG CỦA NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ
1. Tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ 
a. Hình tượng ngôn từ thiếu tính trực quan
Tính độc đáo của chất liệu xây dựng nên hình tượng văn chương là ngôn từ đã khiến cho hình tượng văn chương mang tính phi vật thể. Người ta vẫn thường đối lập văn chương với nghệ thuật. Đây không phải là ngẫu nhiên. Có thể phân chia thế giới nghệ thuật của con người ra làm hai loại: một loại chỉ có một ngành là văn chương, còn loại kia là gồm tất cả các ngành nghệ thuật khác. Căn cứ vào chất liệu xây dựng hình tượng thì cách phân chia này hoàn toàn hợp lí. Các ngành nghệ thuật (ngoài văn chương) hình tượng của nó được xây dựng bằng chất liệu vật chất cụ thể của tự nhiên: gỗ, đá, kim loại, sơn màu, thân thể con người v.v… Từ những vật liệu có tính chất vật thể đó, hình tượng các loại hình nghệ thuật được xây dựng nên đều mang tính hữu hình trực tiếp, tính xác thực, tính trực quan. Các hình tượng hữu hình vật thể này có khả năng tác động trực tiếp vào giác quan, gây nên những ấn tượng, cảm xúc thị giác mạnh mẽ.
Được xây dựng từ chất liệu ngôn từ, hình tượng văn chương không tác động trực tiếp vào các giác quan của chúng ta, dù là thị giác hay thính giác. Người thưởng thức tác phẩm văn chương được gọi là độc giả còn người thưởng thức tác phẩm nghệ thuật thường được gọi là khán giả, mặc dầu cả 2 loại người này đều dùng mắt cả. Chỉ bởi, đối với văn chương không ai trực tiếp nhìn, ngắm hình tượng của nó bằng mắt cả. Các hình tượng văn chương hiện lên trong óc người thưởng thức bằng trí tưởng tượng. Người đọc phá vỡ ý nghĩa các từ, câu để liên tưởng với các biểu tượng về đối tượng được miêu tả, nhờ vào trí tưởng tượng mà người đọc dường như tái tạo đối tượng miêu tả mà văn bản chỉ ra. Như thế chúng ta không sờ thấy, nghe thấy, nhìn thấy trực tiếp tượng văn chương. Các hình tượng văn chương thiếu tính trực quan, chúng phi vật thể.
Nghệ thuật là qui luật của tình cảm, mà tình cảm chỉ xuất hiện khi con người tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng cụ thể. Đứng về phương diện này, văn chương phải nhường chỗ cho các nghệ thuật khác. Tính phi vật thể của hình tượng văn chương đã không thể tạo ra được tri giác cảm tính trực tiếp. Đây là một khiếm khuyết, nhiều khi không phải là nhỏ của văn chương. Để khắc phục tình trạng đó, nghệ sĩ ngôn từ luôn luôn phấn đấu cho các hình tượng vật thể của mình trở nên hữu hình. Vì vậy, mà tính tạo hình là một thuộc tính của hình tượng văn chương. Người xưa thường nói “thi trung hữu họa”, ngày nay Gorki đã gọi văn chương là nghệ thuật tạo hình bằng phương tiện ngôn ngữ. Chính những biểu tượng hữu hình mà ngôn từ gợi nên đã khiến cho độc giả có cảm giác là có thể cảm thụ nghệ thuật văn chương bằng thị giác.
b. Hình tượng nghệ thuật ngôn từ tác động tới mọi giác quan của độc giả
Nếu như các ngành nghệ thuật khác, hình tượng của nó chỉ có thể cảm thụ bằng 2 giác quan là thị giác và thính giác, thì hình tượng phi vật thể của văn chương lại có năng tác động tới người đọc không chỉ ở cơ quan thị giác mà cả thính giác, vị giác và khứu giác. Độc giả dường như phải vận dụng mọi cơ quan cảm giác để tiếp nhận hình tượng văn chương. Những câu thơ sau đây ta phải dùng thị giác để tiếp nhận màu sắc, hình khối của hiện thực:
- “Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Những câu thơ sau đây ta phải dùng thính giác để tiếp nhận âm thanh cuộc sống:
- “Sóng sầm sịch lưng chừng ngoài biển bắc
Giọt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên”.
- “Đùng đùng gió dục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay”.
Hình tượng ngôn từ còn đem đến cho con người cả hương vị cuộc sống:
- “Em ạ! Cu_ba ngọt lịm đường
Mía xanh đồng bãi, biếc đồi nương”.
Hình tượng văn chương còn đem đến cho con người những cảm giác khác:
- Cảm giác về sự đau đớn:
“Cháu buốt ở trong tim này
Nơi tang đeo suốt đêm ngày Bác ơi”.
Đó là những cảm giác ngoài cảm giác vì nó không do các giác quan đem lại mà do sự thể nghiệm của độc giả đưa lại khi các hình tượng văn chương tác động tới sự tưởng tượng trí tuệ của chúng ta.
Tính hơn hẳn của nghệ thuật ngôn từ không chỉ ở chỗ nó tác động tới nhiều cơ quan cảm giác của người đọc mà còn ở chỗ tác động tới trí tưởng tượng trí tuệ. Thực sự thì nghệ thuật ngôn từ không lấy mục đích tối thượng là khắc họa bản thân các thuộc tính của sự vật để có thể cảm nhận bằng giác quan của người đọc, mà nó lấy việc khắc họa những phản ứng của ý thức con người trước hiện thực làm quan trọng. Do đó, điều quan trọng trong hình tượng nghệ thuật ngôn từ là tâm trạng và muốn thưởng thức nó bạn đọc không phải nhìn ngắm mà là thể nghiệm. Ðây là tâm trạng đau đớn vì mất mát quá lớn của Nguyễn Khuyến:
“Bác Dương thôi, đã thôi rồi
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.”
c. Tính chủ quan, cá biệt của hình tượng văn chương
Hình tượng nghệ thuật văn chương là phi vật thể nó lại lấy việc khắc họa tâm trạng, thể hiện các môn quan hệ, các phản ứng của ý thức con người - là những cái vô hình - làm chủ yếu, chứ không lấy sự liệt kê các chi tiết có thể thụ cảm bằng thị giác làm cứu cánh. Ðo đó, trong các liên tưởng ở người đọc do hình tượng ngôn từ gợi nên có tính chủ quan cá biệt, thậm chí tùy tiện. Nhưng đây lại là đặc trưng bản chất của văn chương. Không nói những yếu tố vô hình mà ngay những yếu tố hữu hình - ví dụ như ngoại hình nhân vật, phong cảnh thiên nhiên của hình tượng văn chương, biểu tượng của chúng xuất hiện rất khác nhau ở người đọc, khác với biểu tượng xuất hiện của người xem tranh, xem kịch hay xem chiếu bóng. Trong các người đọc khác nhau sẽ xuất hiện những biểu tượng khác nhau về cùng một nhân vật văn chương. Tố Hữu xem Kiều là con người đáng thương:
- “Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều”.
- “Tố Như ai, lệ chảy quanh thân Kiều”.
Còn Tản Ðà xem Kiều là người con gái đáng trách:
“Ðoạn trường cho đáng kiếp tà dâm
Bán mình trong bấy nhiêu năm
Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai.”