Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng!

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

CHỨC NĂNG GIÁO DỤC CỦA VĂN HỌC


CHỨC NĂNG GIÁO DỤC CỦA VĂN HỌC

I.           Văn học và các chức năng của văn học
    1. Khái niệm văn học
Có rất nhiều quan niệm về văn học từ trong lịch sử của các nhà Mỹ học duy tâm và duy vật và cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, có thể hiểu khái niệm văn học ở 2 góc độ sau:
-          Theo nghĩa rộng : Văn học chính là tên gọi chung của mọi tác phẩm bằng ngôn ngữ nói hay viết.
-          Theo nghĩa hẹp : Văn học là văn học nghệ thuật, tức là các sáng tác bằng ngôn từ hư cấu, tưởng tượng; biểu hiện tình cảm của con người như: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn, kịch,…
    1. Các chức năng của văn học
Văn học không chỉ phát triển một chức năng nào đó mà đồng thời mang nhiều chức năng hoàn toàn khác nhau. Nó không lặp lại nội dung của một chức năng nào đó như các ngành khoa học khác mà thực hiện theo cách hoàn toàn riêng biệt (tùy theo mục đích và phương thức).
Hiện nay, có rất nhiều ý kiến trong vấn đề số lượng và sự phân định rạch ròi các chức năng của văn học. Có ý kiến cho là văn học có 3 chức năng, rồi 4, 5, 8, 9, 10, thậm chí là tời 14 chức năng. Việc thống nhất là điều chưa thể thực hiện nên có thể tạm văn học gồm có 4 chức năng chính:           
Chức năng nhận thức
Chức năng giáo dục
Chức năng thẩm mỹ
 Chức năng giao tiếp
Ngoài ra còn có thể kể đến một số chức năng khác như: chức năng sáng tạo, chức năng đánh giá, chức năng cải tạo,…
II.        Chức năng giáo dục của văn học
    1. Khái niệm giáo dục
-          Giáo dục có thể hiểu là học tập, nâng cao trình độ văn hóa.
-          Giáo dục cũng có thể hiểu như hoạt động rèn luyện, trau dồi những giác quan thẩm mỹ và năng lực sáng tạo cho con người.
    1. Chức năng giáo dục của văn học
Theo cách hiểu như trên thì chức năng giáo dục của văn học là rất phong phú. Những ý kiến về việc nên tách chức năng văn hóa hay chức năng chức năng sáng tạo trong chức năng giáo dục của văn học ra riêng cũng không phải là không có cơ sở. Tuy nhiên, văn học không chỉ giáo dục về mặt đạo đức phẩm chất con người mà còn tác động đến thế giới quan và các quan điểm chính trị - xã hội của con người.
Chức năng giáo dục của văn học thể hiện trong những nội dung sau:
2.1 Văn học có chức năng giáo dục thẩm mỹ.
Chức năng giáo dục của văn học trước hết là giáo dục thẩm mỹ. Đó là quá trình nâng cao năng lực thẩm mỹ của con người trong đó có việc bồi dưỡng các cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ. Từ đó, con người có khả năng tiếp cận và tiếp nhận cái đẹp một cách có hiệu quả hơn.
Các tác phẩm ở những thời đại khác nhau cho chúng ta biết được sự đánh giá về cái đẹp của giai đoạn đó. Từ những nhân vật cụ thể trong tác phẩm mà người đọc xây dựng cho mình lý tưởng thẩm mỹ cho phủ hợp.
Ví dụ: Hình tượng Từ Hải trong “Truyện Kiều” ngoài ý nghĩa là mơ ước tự do và công lí của Nguyễn Du, nó còn có tác dụng khơi dậy ở người đọc ý chí độc lập tự do, ý thức không cam tâm làm nô lệ, ý thức tháo củi sổ lồng đạp bằng mọi bất công ở con người. Hình tượng Kiều lại giáo dục con người ta lòng hiếu nghĩa với cha mẹ, lòng chung thủy vợ chồng, ý thức luôn luôn khơi dậy trong cuộc sống.
Trong khi đó thì Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh … là những hình tượng làm cho người đọc căm ghét thì Từ Hải lại là nhân vật làm cho người ta thương yêu, trân trọng, đấy chính là mặt trái và mặt phải của tác dụng thẫm mĩ của hình tượng văn học.
2.2 Văn học khêu gợi tư tưởng, tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn, niềm tin vào con người.
- Văn học có khả năng hướng thiện: luôn hướng con người đến cái thiện thông qua việc hình thành quan điểm đạo đức, khơi gợi tình cảm đạo đức cho con người thông qua hình tượng nhân vật điển hình.
Ví dụ: Từ những hình tượng như Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, cô Tấm, Thạch Sanh,… trong truyện cổ tích; hình tượng Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga,… trong văn học chữ Nôm đến hình tượng mẹ Tơm, mẹ Suốt, anh hùng Núp, Tnú,… trong văn học hiện đại đã ảnh hưởng ít nhiều đến quan niệm đạo đức của lớp lớp thế hệ người Việt Nam.
- Văn học là nơi nuôi dưỡng tình cảm nhân ái.
+ Những tác phẩm văn học ưu tú luôn có khả năng khơi dậy trong chúng ta khả năng đồng cảm; làm cho ta biết yêu, biết buồn; dậy cho ta biết yêu, biết ghét, biết khinh bỉ sự phản trác, cái tẹp nhẹp, tầm thường, lười biếng,…
Ví dụ: Ta thương Sọ Dừa vì hình dáng tội nghiệp nhưng luôn luôn cố gắng vươn lên; ta thương Cô Tấm vì luôn bị kẻ xấu hãm hại; ta thích Thạch Sanh vì luôn chiến đấu vì người khác, bảo vệ nhân dân; ta mến Gióng vì nhỏ tuổi nhưng có quyết tâm đánh giặc cứu nước,…
Ta ghét mẹ con nhà Cám, Lý Thông,… vì chúng luôn dùng thủ đoạn để hãm hại người tốt, mong muốn có được danh lợi nhờ sự lừa lọc, lợi dụng kẻ khác,…
+ Văn học khơi dậy trong tâm hồn ta niềm tin vào sự tất thắng của cái thiện, niềm tin vào cuộc sống,…
Ví dụ: Cô Tấm hay Thạch Sanh dù có phải trải qua bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu thử thách trong hành trình của mình nhưng vẫn giành được thắng lợi cuối cùng, vẫn có được tình yêu và hạnh phúc.
2.3 Chức năng giáo dục của văn học còn ở tình chiến đấu của nó
Văn chương là vũ khí đấu tranh giai cấp. Tính chất “vũ khí” của văn chương biểu hiện tập trung ở chỗ này. Cải tạo là phê phán cái cũ, cái xấu, cái lạc hậu, đề xuất cái mới cái tốt cái tiến bộ cách mạng. Nếu văn chương chỉ vạch ra cái tiêu cực không thôi thì mới là được nhiệm vụ “phá” mà chưa làm được nhiệm vụ “xây”. Như thế có nghĩa là chưa thực hiện trọn vẹn chức năng cải tạo. Mặt khác, không có một vụ "xây" nào mà không gắn với phê phán, phá bỏ cái cũ, cái xấu, cái lạc hậu, cái cản trở sự phát triển đi lên. Lênin đã từng gọi “Người mẹ” của Gorki là “quyển sách kịp thời” bởi vì chính “Người mẹ” đã có sức mạnh cải tạo, sức mạnh của một vũ khí tinh thần và tư tưởng cho công nhân Nga lúc bấy giờ. Người nói:  “Quyển sách này là cần thiết, nhiều công nhân đã tham gia phong trào cách mạng một cách vô ý thức, tự phát, và bây giờ họ đọc “Người mẹ”, điều đó sẽ mang lại ích lợi lớn cho bản thân họ”.
   Và quả thật, những hình tượng điển hình về những công nhân - những chiến sĩ cách mạng Nga, qua sự miêu tả của nhà sáng lập ra nền văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã tỏ ra là những tấm gương mà nhờ đó nhiều thế hệ chiến sĩ  đấu tranh nhằm giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức đã học tập được.
2.4 Văn học biến sự giáo dục thành tự giáo dục, giúp cho con người tự hoàn thiện nhân cách.
- Nhân cách con người được hình thành một cách trọn vẹn thông qua văn học
Các hình tượng văn học đã được nhà văn cẩn thận chọn lọc và gây xúc cảm tự nhiên trong lòng người đọc.
Ví dụ: Ta ghét Mã Giám Sinh, Sở Khanh hay Hồ Tôn Hiến vì chúng đã thể hiện được bộ mặt thật của mình qua những hành động như: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” hay “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”,…
Nhờ sự yêu, ghét hay thương cảm cho các nhân vật mà từ đó, nhân cách được hình thành trong người đọc một cách tự giác, dẫn biến tu tưởng, tình cảm thoáng qua ấy thành nhận thức của người đọc.
- Văn học giáo dục chính bằng sự cuốn hút, hấp dẫn của nó chứ không phải bằng những hình thức khô khan.
Tất cả những chân lý, luân lý, đạo đức, tư tưởng, tình cảm của văn học mang lại không khô khan, trừu tượng như triết học hay khoa học mà rất sống động và giàu hình ảnh, được người đọc cảm nhận một cách thích thú.
Ví dụ: Khi dạy cho đứa trẻ hiểu về tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, đoàn kết, yêu thương lẫn nhau, bảo vệ môi trường, tránh phân biệt chủng tộc,… thì không có gì gây thiện cảm hơn cho trẻ bằng những bài thơ như: “Tiếng ru” (Tố Hữu), “Việt Nam đất nước ta ơi!” (Nguyễn Đình Thi) hay “Bài ca về trái đất” (Định Hải).
III.     Tạm kết
Trong các chức năng cơ bản của văn học thì chức năng giáo dục được đánh giá là quan trọng nhất. Đây là chức năng cơ bản, bao gồm những thành phần quan trọng giúp cho văn học luôn chiếm được một chỗ đứng vững chắc trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử.
Văn học là phương tiện hữu hiệu nhất làm cho những con người có cùng chung nỗi đau, khát vọng, quan niệm đạo đức và lý tưởng thẩm mỹ xích lại gần nhau, đoàn kết với nhau; biến những tư tưởng, tình cảm, chuyển nhận thức của họ thành hành động thực tiễn.

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

KỊCH BẢN VĂN HỌC.


Chương 10.
KỊCH BẢN VĂN HỌC.
                                      -----------------------------------------------------
1. Kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu.
Không nên đồng nhất kịch và kịch bản văn học. Nói đến kịch là nói đến một loại hình của nghệ thuật sân khấu mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều hoạt động của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh... Kịch bản văn học chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của kịch
Là một trong 3 loại chính của văn học, kịch bản trước hết tự nó phải là một tác phẩm  hoàn chỉnh và độc lập, thể hiện đầy đủ những đặc điểm của một tác phẩm  văn học. Tuy nhiên, kịch bản văn học được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu trước một tập thể khán giả trong một thời gian nhất định nên nghệ thuật sân khấu qui định hết sức chặt chẽ quá trình sáng tác kịch bản văn học của nhà văn. Sự qui định đó có thể được thể hiện ở nhiều mặt. Trước hết là về dung lượng phản ánh của kịch bản văn học. Nhà văn không thể xây dựng kịch bản với một thời gian quá dài với nhiều nhân vật qua những không gian rộng lớn như trong tiểu thuyết. Ngoài ra, nhân vật còn phải "sân khấu hóa" tất cả những gì được miêu tả. Những sự kiện, diễn biến của cốt truyện phải được xây dựng thế nào cho phù hợp với việc thể hiện một cách trực tiếp trên sân khấu thông qua hành động, ngôn ngữ của diễn viên. Như vậy, có thể nói, kịch bản là một tác phẩm  văn học hoàn chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật này đã qui định những đặc điểm của kịch bản văn học.
2. Xung đột kịch.
Kịch bắt đầu từ xung đột. "Xung đột là cơ sở của kịch" (Pha đê ép). Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm  kịch là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có thể có rất nhiều loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén, giằng co, chống đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu tranh nội tâm của một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng...Do tính chất sân khấu qui định cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc phải bước vào những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói, xung đột là đặc điểm cơ bản của kịch. Hégel cho rằng " tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên cảu nghệ thuật kịch".
Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và thời đại, nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ơí những thời đại khác nhau có những xung đột khác nhau. Ở  thời cổ đại, đó là sự xung đột giữa thế giới quan thần linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân của con người. Trong xã hội nô lệ, đó là xung đột giữa những người nô lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô. Trong xã hội phong kiến, đó là xung đột giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại với người dân bị áp bức và đòi được giải phóng. Trong thời kì hiện đại, các xung đột thưòng xoay quanh những vấn đề cách mạng và phản cách mạng, cái thiện, cái ác, cái mới, cái cũ, cái tốt, cái xấu...
Xung đột kịch do tính chất sân khấu qui định đồng thời xung đột làm cho kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở chỗ nhà văn phải phát hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố khác của kịch phải góp phần tô đậm xung đột và dẫn đến một kết cục sâu sắc, gần gũi với những vấn đề của cuộc sống
3. Hành động kịch.
Xung đột kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ sở của tác phẩm  kịch. Hành động là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, quan hệ...của con người trong cuộc sống xung quanh. Trong kịch, hành động được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua hành vi, động tác, ngôn ngữ của họ.
Trong mỗi vở kịch, mỗi diễn viên sẽ có một hệ thống hành động chính gọi là hành động xuyên nhằm thể hiện tư tưởng trọng tâm của nhân vật. Trong Roméo và Juliette của Shakespeare tất cả những động tác, cử chỉ, lời nói của hai nhân vật luôn gắn liền với ý thức bảo vệ và hy sinh cho tình yêu. Qua hàng loạt các hành động của các tính cách, các xung đột của vở kịch được bộc lộ.
4. Nhân vật kịch.
Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng, hoạt động. Trong kịch bản văn học, ngoài nhân vật, còn có những lời chỉ dẫn về cảnh vật, con người thường được in nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý cho sự dàn dựng của nhà đạo diễn chứ không phải cho người xem. Vì vậy, có thể nói trên sân khấu chỉ có nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc đều được bộc lộ thông qua nhân vật.
Ðiểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm  kịch với tác phẩm  tự sự và kí là kịch không có nhân vật người kể chuyện. Maxim Gorki cho rằng : "Kịch, bi kịch, hài kịch là thể loại khó nhất trong văn học, khó là vì một vở kịch đòi hỏi mỗi nhân vật trong vở kịch phải thể hiện tính cách bằng lời nói và hành động không có lời mách bảo, gợi ý của tác giả. Các nhân vật kịch được hình thành là do lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu tả".
Tác phẩm  kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế bởi không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như trong các tác phẩm  tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều măt. Do đó, tính cách nhân vật trong kịch tập trung, nổi bật và xác định nhằm gây ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả. Hiển nhiên sự nổi bật, tập trung đó không có nghĩa là đơn giản, một chiều. Xoay quanh một nét tính cách khác, vừa liên đới, vừa biến thái làm cho gương măt của nhân vật sinh động và đa dạng.
Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người không thể không đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt...Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất trong kịch. Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.
5. Ngôn ngữ kịch.
Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ. Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể nói đến 3 dạng ngôn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Ðây là dạng ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh động và có tác dung hỗ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính.
Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ những dằn vặt nội tâm và những ý nghĩa thầm kín. Ðây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu hiện nội tâm nhân vật nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội tâm, bên cạnh độc thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng, những tiếng vọng, tiếng đế...
Bàng thoại là nói với khán giả. Có khi đang đối đáp với một nhân vật khác, bỗng dưng nhân vật tiến gần đến và hướng về khán giả nói vài câu để phân trần, giải thích một cảnh ngộ, một tâm trạng cần được chia xẽ, một điều bí mật: loại này chiếm tỉ lệ thấp trong ngôn ngữ kịch.
Các dạng ngôn ngữ của kịch đòi hỏi phải mang tính khấu ngữ, động tác hóa và tính cách hóa. Trước hết, đó là những lời đối thoại thông thường trong cuộc sống, phải có tác dụng khắc họa tính cách, nghề nghiêp, tuổi tác, trình độ văn hóa...của nhân vật. Nó mang sắc thái riêng của từng tình cách, do từ miệng nhân vật nói ra, chứ không phải do tác giả. Ngôn ngữ trong kịch đòi hỏi phải gắn liền mật thiết với động tác, điều này íup người xem hiểu được những suy nghĩ, tâm tư nhân vật. Ngay trong trường hợp chỉ nghe kịch trong radio, người nghe cũng cảm được sắc mặt, họat động và trạng thái tâm lí của nhân vật.
Ngôn ngữ nhân vật kịch đòi hỏi người viết phải có một vốn hiểu biết phong phú và sâu rộng về quàn chúng, nắm được cách nói đa dạng cảu quần chúng, điều này quan trọng đối với mọi nhà văn nói chung nhưng đặc biệt là đối với người viết kịch.
6. Phân loại kịch.
Có nhiều cách phân loại kịch khác nhau. dựa trên phương thức biểu diễn, có thể phân ra các loại: ca kịch, vũ kịch, kịch nói, kịch câm...Dựa trên dung lượng, ta có kịch ngắn, kịch dài..Cách phân loại phổ biến nhất là dựa trên đặc điểm và nội dung của xung đột kịch. Theo cách phân loại này, ta có bi kịch, hài kịch và chính kịch (kịch drame).
Bi kịch là một thể loại kịch mà xung đột chủ yếu nằm ở giữa "yêu sách tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng không tài nào thực hiện được điều đó trong thực tế" (Enghel). Bi kịch đưa lên sân khấu những con người lương thiện, dũng cảm, có những ham muốn mãnh liệt với những cuộc đáu tranh căng thẳng, khốc liệt đối với cái ác, cái xấu nhưng do điều kiện lịch sử,họ phải chịu thất bai. Thất bại của họ gợi lên ở khán giả "sự xót thương và sự sợ hãi để thanh lọc tình cảm" (Aristote) hoặc "để ca ngợi, biểu dương ý chí luôn luôn vươn lên của con người trước những sức mạnh mù quáng của các thế lực hắc ám" (Biêlinxki).
Hài kịch là thể loại kịch nói chung được xây dựng trên những xung đột giữa các thế lực xấu xa tìm cách che đậy mình bằng những lớp sơn hào nhoáng, giả tạo bên ngoài. Tính hài kịchtạo ra từ sự mất cân xứng, hài hòa của nhân vật. Trong một số hài kịch, có những nhân vật tích cực thể hiện lí tưởng tiến bộ, nhưng nhìn chung nhân vật hài kịch là những nhân vật tiêu cực có nhiều thói hư tật xấu. Tiếng cười trong hài kịch có tác dụng giải thóat cho con người khỏi những thói xấu, có tác dung trau dồi phong hóa, giáo dục đạo đức và thẩm mĩ.
Chính kịch còn gọi là kịch drame, đề cập đến mọi mặt của đời sống con người, đó là con người toàn vẹn, không bị cắt xén hoặc chỉ tô đậm ở nét bi hoặc hài. Shakespeare là người đầu tiên đã thể hiện thành công cho loại kịch có sự pha trộn giữa bi và hài này. Dần dần chính kịch phát triển mạnh vì thích hợp hơn với cuộc sống và con người hiện đại.

Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

TÁC PHẨM KÍ VĂN HỌC.


Chương 9.
TÁC PHẨM   KÍ  VĂN HỌC.
                               I.                XÁC ĐỊNH PHẠM VI CỦA KÍ
                              1.                                Một vài quan niệm không hoàn chỉnh về kí
                              2.                                Giới hạn kí qua các hệ thống phân loại
                            II.                NGƯỜI THẬT, VIỆC THẬT TRONG KÍ
                              1.                                Kí trần thuật người thật
                              2.                                Kí có tính thẩm mĩ
                         III.                TÍNH CHẤT, MỨC ĐỘ, PHẠM VI HƯ CẤU CỦA TÁC PHẨM KÍ
                              1.                                Tính chất
                              2.                                Mức độ 
                              3.                                Phạm vi
                         IV.                MỘT SỐ THỂ LOẠI KÍ
                              1.                                Phóng sự
                              2.                                Kí sự
                              3.                                Hồi kí
                              4.                                Bút kí
                              5.                                Truyện kí
                                      -----------------------------------------------------
Tác phẩm  kí văn học và kí báo chí giống nhau ở chỗ đều tôn trọng tính xác thực và tính thời sự. Nhưng ở kí báo chí, tính xác thực phải được đảm bảo ở mức độ cao nhất và tính thời sự cũng mang tính chất thật cấp bách, hằng ngày. Kí văn học không đòi hỏi như vậy, ngược lại, nó đề ra yêu cầu cao hơn về chất suy nghĩ và tình cảm của chủ thể. Dĩ nhiên sự phân biệt trên chỉ có tính chất tương đối.
I. XÁC ĐỊNH PHẠM VI CỦA KÍ
Ðể có một định nghĩa tương đối chính xác về kí, cần giới hạn phạm vi phản ánh của nó.
1. Một vài quan niệm không hoàn chỉnh về kí.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về kí. Theo Goulaiep, đặc trưng của kí là tính tổng hợp về đối tượng mô tả và người ta có thể tìm thấy ở đó không chỉ là những số phận mà là những bức tranh về phong tục, về đời sống kinh tế, chính trị...Ðặc trưng này thực ra có thể được xác định rõ nét hơn trong tiểu thuyết. Có người cho rằng đặc trưng của kí là ở tính chủ quan. Ðiều này có một phần căn cứ nhưng tính chất này có lẽ được chỉ rõ nhất trong tác phẩm  trữ tình. Do kí là một thể loại có tính chất ghi chép nên nhiều người cho rằng kí phản ánh người thật, việc thật. Quan niệm này được nhiều người chấp nhận nhưng vẫn chưa lí giải một cách thuyết phục tại sao lại gọi Ðất nước đứng lên, Thép đã tôi thế đấy...là tiểu thuyết mà gọi Người mẹ cầm súng, Sống như anh là Kí.Việc xác định một khái niệm đúng đắn về kí khó khăn một phần vì trong kí có nhiều loại khác nhau, phần khác vì cách gọi tên của các nhà văn đối với tác phẩm  của mình. Chẳng hạn Tây du kí của Ngô Thừa Ân là một tiểu thuyết, Nhật kí ở rừng của Nam Cao là một truyện ngắn...Muốn giải quyết vấn đề này, cần xem xét kí một cách có hệ thống.
2. Giới hạn kí qua các hệ thống phân loại.
Theo hệ thống Thơ- tiểu thuyết- kịch- kí:
Trong hệ thống này, kí buộc phải bao hàm các loại văn xuôi còn lại. Và nếu chấp nhận hệ thống Trữ tình- tự sự- kịch thì có thể, trước hết, có một số tác phẩm  giàu chất trữ tình mà từ trước đến nay thường được gọi là kí hư  tùy bút cần phải được xếp vào loại trữ tình. Bởi vì trong tùy bút, chủ yếu không phải là thồn tin sự thực. Sự thực ở đây chỉ là cái cớ để tác giử bộc lộ tâm trạng, "là cái đinh để tác giả treo lên bức tranh tình cảm của mình" (Nguyễn Tuân).
Theo hệ thống trữ tình- tự sự và kịch:
Hệ thống này hoàn toàn đúng cho văn chương thẩm mĩ mà không bao gồm hết các loại, vốn không phải là văn chương thẩm mĩ nhưng vẫn có giá trị nghệ thuật cao. Ðó là loại văn chính luận. Tuy nhiên không thể xếp văn chính luận vào kí như từ trước đến nay vì văn chính luận chủ yếu không phải nhằm thông tin sự thật mà thông tin lí lẽ. Có thể sắp xếp bút kí chính luận vào văn nghị luận. Như vậy, kí sẽ không bao gồm tùy bút và bút kí chính luận.
Qua các giới thuyết trên, kí có thể phân biệt được với kịch, trữ tình và chính luận. Như vậy, kí chỉ còn liên quan với loại tự sự. Có thể nói, kí là một loại văn tự sự hay nới như Goulaiep kí là một biến thể của loại tự sự.
So sánh kí với loại tự sự sẽ tìm ra được đặc trưng của kí.
II. NGƯỜI THẬT - VIỆC THẬT TRONG KÍ
1. Kí trần thuật người thật
Đã xãy ra một cách xác thực nhằm trước hết là thông tin sự thật chứ không phải là thông tin thẩm mĩ. Tính xác thực là đặc trưng quan trọng nhất và có tính nguyên tắc của kí. (Dĩ nhiên tính xác thực về người thật, việc thật bao hàm những tâm trạng và lí lẽ chứa đựng trong ngeoeig thật việc thật đó. Nới như Pôlêvoi "Kí có địa chỉ chính xác của nó" .
2. Kí có tính thẩm mĩ.
Xét từ bản chất và gốc gác, kí không nhằm thông tin thẩm mĩ mà là thông tin sự thật nhưng không vì vậy mà kí thiếu tính nghệ thuật. Sở dĩ kí có tính nghệ thuật bởi vì trước hết nga trong hiện thực cung đã bao hàm cái thẩm mĩ đồng thời chính nhiệt tình khát khao mong biết được sự thật cũng góp phầm tạo nên những quan hệ thẩm mĩ. Bám chặt cào người thật, việc thật, các tác phẩm  kí xét một cách tương đối có thể rút ngắn khoảng cách giữa sáng tạo nghệ thuật và cuộc sống, phục vụ kịp thời hơn cho những nhu cầu hiểu biết cuộc sống của người đọc.
III. TÍNH CHẤT, MỨC ĐỘ, PHẠM VI HƯ CẤU CỦA TÁC PHẨM KÍ
1.Tính chất.
Do đặc điểm viết về người thật- việc thật nên mục tiêu, phương hướng của người viết kí là phải luôn luôn phấn đấu theo hướng xác thực tối đa như là một ý thức trách nhiệm thông tin cho người đọc chứ không phải lad sáng tạo nên một thiên nhiên thứ hai như trong truyện.
2. Mức độ.
Tuy nhiên, đã là một tác phẩm  nghệ thuật, không thể không nói đến hư cấu. Vì vậy, có thể nói đến một số trường hợp hư cấu trong kí.
Như trên đã nói, tác phẩm  kí viết về sự thật nhưng thực ra, cứ giả định rằng, có sự thật đang "Dâng sẵn, đón chờ" và nhà văn có tư tưởng, tình cảm hoàn toàn đúng đắn chỉ việc ghi chép lại thì trước khi ghi chép, ít nhất cũng phải nghe hoặc thấy, tức là nghe kể lại hoặc chứng kiến. Trong trường hơp chứng kiến và viết lại, nhà văn vẫn không thể bao quát hết mọi sự việc hoặc nhớ hết mọi sự diễn biến một cách tường tận...Trong trường hợp nhà văn chỉ nghe kể lại mà không chứng kiến thì có thể sẽ nghe từ nhiều nguồn khác nhau- trực tiếp hoặc gián tiếp- và trong trường hợp nào, người kể cũng không thể biết hết, nhớ hết.
Vì vậy, trước khi đặt bút viết, người viết kí chỉ có một mớ tư liệu lộn xộn, nhiều lỗ hổng, chưa móc nối được tư liệu với nhau...nhà văn buộc phải sử dụng trí tưởng tượng và hư cấu nhằm làm cho bức tranh trở nên hợp lí, liên tục và hấp dẫn.
3. Phạm vi.
Người viết kí không thể tự do tưởng tượng và hư cấu thế nào cũng được. Về nguyên tắc, những thành phần xác định của người thật- việc thật (ngoại hình, tên tuổi, lai lịch, nguồn gốc gia đình...) người viết phải phấn đấu thể hiện xác thực đến mức tối đa. Nhà văn có thể hiện được hư cấu rộng rãi hơn với những thành phần không xác định (như nội tâm nhân vật, cảm xúc, thiên nhiên, những nhân vật phụ...) cũng như việc sắp xếp, tổ chưc hệ thống côt truyện.
Tóm lại, trong tác phẩm  kí văn học, nhà văn có thể hư cấu nhưng nhìn chung có phần hạn chế và thường ở những thành phần không xác đinh.
IV. MỘT SỐ THỂ LOẠI KÍ
1. Phóng sự
Là một loại kí đặc biệt chú trọng đến sự việc. Trong "nhà văn hiện đại" của Ngọc Phan viết "Phóng sự là thăm dò lấy sự việc và ghi lấy việc". Phóng sự nhằm phản ánh một sự kiện, hiện tượng xã hội một cách kịp thời và thường mang tính chất điều tra, phỏng vấn, một vấn đề có ý nghĩa thời sự.
Người viết phóng sự phải đáp ứng một đòi hỏi nào đó về thời sự trực tiếp của người đọc. Ơí đây nhà văn thường ít bộc lộ cảm xúc, suy tư nhưng lại mang tính khuynh hướng rõ rệt.
2.  Kí sự
Kí sự khá gần gũi với phóng sự vì nó chú trọng đên sự việc, ít yếu tố trữ tình. Kí sự ghi chép khá hoàn chỉnh 1 sự kiện, 1 phong trào, 1 giai đoạn,... gần với truyện ngắn, ít hư cấu.
3. Hồi kí
Ghi lại những sự việc đã xãy ra qua hồi tưởng. Ðó có thể là câu chuyện  mà người viết đã tham gia, chứng kiến hoặc được nghe thuật lại một cách tường tận và gắn liền với kỉ niệm của người viết hoặc kể.
Hồi kí đòi hỏi phải tôn trọng tính chân thực của câu chuyện và có sự khái quát cao.
4. Bút kí.
Nhằm ghi lại những sự việc, cảnh vật mà nhà văn đã mắt thấy, tai nghe cũng như cảm xúc, suy nghĩ của họ qua một chuyến đi. Ở đây, những sự việc luôn xen kẽ với những yếu tố liên tưởng, tưởng tượng, cảm xúc. Vì vậy, bút kí luôn  mang đâm sắc thái trữ tình.
5. Truyện kí
Là một thể loại trung gian giữa truyện và kí. Truyện kí thường tập trung cốt truyện vào một nhân vật, một danh nhân, một nhân vật lịch sử, một người anh hùng trên các mặt trận...Trong truyện kí, tác giả có thể hư cấu để câu chuyện được hoàn chỉnh nhưng phải giữ được tính xác thực của sự việc và con người.
Ranh giới của việc phân chia các thể kí nêu trên chỉ có tính chất tương đối. Các thể kí luôn luôn chuyển hóa, xâm nhập lẫn nhau. trong sáng tác, các nhà văn có thể không quan tâm đến đặc trưng của từng thể loại mà chủ yếu là vận dụng các khả năng, phương tiện của văn học nhằm thể hiện một cách tốt nhất mục đích của mình.

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ


Chương 8:
LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ
  1. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ 
    1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính cách khách quan của nó thông qua các sự kiện hệ thống sự kiện
    2. Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát
    3. Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật
    4. Lời văn trong tác phẩm tự sự
  2. TIỂU THUYẾT, TRUYỆN VỪA, TRUYỆN NGẮN
    1. Tiểu thuyết
    2. Truyện ngắn
    3. Truyện vừa
                                      -----------------------------------------------------
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ
1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua các sự kiện, hệ thống sự kiện.
    Các nhà lí luận từ Aristote đến Lessing, Hégel, Biélinxki đều cho rằng tác phẩm tự sự đưa ra một bức tranh khách quan về thế giới. Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote cho rằng thế giới của tác phẩm tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật, không phụ thuộc vào ý muốn và tình cảm của họ. Ở đây, nhà văn dường như đứng bên ngoài để kể lại. Tất cả những sự việc của đời sống được nhà văn kể lại như một đối tượng khách quan ở bên ngoài mình. Chính vì vậy, tác phẩm tự sự mang tính khách quan..
Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lí luận khẳng định tính sự kiện có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm tự sự. Các biến cố, sự kiện này có thể là những biến cố, sự kiện bên ngoài, tức là phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động cụ thể có thể thấy được, cũng có thể là những biến cố, sự kiện bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ... nhưng những biến cố, sự kiện này không được biểu hiện trực tiếp mà được xem như một đối tượng để đem ra phân tích, nhận biết.
Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm những sự kiện bên ngoài và bên trong của con người nhưng đều xem chúng như là những sự kiện khác nhau về đời sống con người, xã hội.
2. Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát.
Tác phẩm tự sự miêu tả cuộc sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện mà sự kiện là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với con người, con người và môi trường xung quanh. Do đó, tác phẩm tự sự mở ra một phạm vi hết sức rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực khách quan, được thể hiện trong nhiều mối quan hệ.
Trong tác phẩm tự sự, không gian và thời gian không bị hạn chế. Nhà văn có thể thể hiện những vùng đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong hiện tại, có thể lướt qua hoặc tập trung miêu tả một mặt nào đó mà mình cho là quan trọng. Nó có thể kể về một khoảnh khắc hoặc một sự kiện dài 10, 20, 50 năm trong một không gian nhất định hoặc ở nhiều vùng đất khác nhau.
Từ những đặc điểm trên, nhân vật tự sự cũng được khắc họa đầy đặn, nhiều mặt nhất; có thể được triển khai sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa dạng và phong phú. Nhân vật thường có số phận, con đường đi và quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. so với các loại nhân vật khác, nhân vật trong tác phẩm tự sự được khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, cả quá khứ, hiện tại và trong xu thế phát triển...Tóm lại, nhân vật tự sự được miêu tả nhiều mặt, toàn diện và sinh động, nhiều màu sắc thẩm mĩ.
Do tính chất phản ánh rộng lớn và bao quát, hệ thống chi tiết trong tác phẩm tự sự cũng phong phú và đa dạng, mang chất "văn xuôi". Ở đây, có thể bắt gặp những chi tiết về chân dung, ngoại hình, tâm sinh lí, phong tục, tập quán, đồ vật, dời sống lao động sản xuất, tôn giáo, chính trị...bao gồm những chi tiết có thực, tưởng tượng, hoang đường... hơn tất cả mọi loại tác phẩm khác.
3. Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật.
Hình tượng người trần thuật có thể là tác giả nhưng không nên đồng nhất người trần thuật với tác giả. Người trần thuật có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức: khi thì tác giả ẩn mình sau những nhân vật tưởng tượng, khi thì nhân danh chính bản thân mình mà kể chuyện với ngôi thứ nhất. Nhưng dù dưới hình thức nào, người trần thuật cũng làm nhiệm vụ tường thuật, kể chuyện để phân tích, nghiên cứu, khêu gợi, bình luận, cắt nghĩa những quan hệ phức tạp giữa nhân vật và nhân vật, giữa nhân vật và hoàn cảnh...Trong tác phẩm tự sự, hình tượng người trần thuật giữ một vai trò hết sức quan trọng và luôn luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người đọc nên hiểu nhân vật, hoàn cảnh...thế này hoặc thế khác.
4. Lời văn trong tác phẩm tự sự
Lời văn trong tác phẩm tự sự chủ yếu là lời văn kể chuyện, miêu tả. Nó có thể được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi nhưng bao giờ cũng hướng người đọc đến đối tượng mà nó miêu tả.
Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một bộ phận của văn tự sự, do đó nó thường được giải thích, cắt nghĩa trước khi nhân vật phát biểu. Ðiều này khác với tác phẩm kịch và tác phẩm trữî tình.
II. TIỂU THUYẾT, TRUYỆN VỪA, TRUYỆN NGẮN
Phạm vi của tác phẩm tự sự hết sức rộng lớn và có thể được phân loại ở nhiều góc độ khác nhau. Dựa vào hình thức lời văn, có thể nói tới các thể loại cơ bản như  anh hùng ca, (sử thi), truyện thơ, trường ca (văn vần), tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn (văn xuôi), ngụ ngôn (thường dùng cả hai hình thức văn vần và văn xuôi). Dựa vào nội dung thể loại, có thể phân thành các tác phẩm có chủ đề dân tộc, thế sự, đạo đức, đời tư...Giáo trình này chỉ trình bày một số thể loại phổ biến trong đời sống hiện nay: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn.
1. Tiểu thuyết.
Tiểu thuyết là thể loại lớn nhất trong loại tác phẩm tự sự, đặc biệt phát triển mạnh mẽ trong thời kì cận và hiện đại. Ðây là thể loại không bị giới hạn về dung lượng phản ánh hiện thực, cả về không gian cũng như thời gian. Qua tiểu thuyết, người đọc có thể hiểu được một giai đoạn lịch sử với nhiều sự kiện, nhiều cảnh ngộ, địa điểm, tình huống...mà khó có thể loại nào có thể đạt được. Các yếu tố khác của tác phẩm văn học, từ đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu...cũng chịu sự chi phối của đặc điểm này.
Tuy nhiên, dung lượng hiện thực chưa phải là đặc điểm duy nhất và cơ bản nhất của tiểu thuyết mà chính là sự miêu tả cuộc sống từ góc độ đời tư. Tùy theo từng giai đoạn phát triển khác nhau, yếu tố đời tư và yếu tố lịch sử, dân tộc có thể kết hợp với nhau nhưng nếu yếu tố lịch sử dân tộc phát triển, tác phẩm sẽ gần với anh hùng ca; chất đời tư phát triển, tác phẩm sẽ đậm đà chất tiểu thuyết hơn.
        Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống trong tính chất văn xuôi. Nó thể hiện cuộc sống như một thực tại cùng thời và hấp thu vào bản thân mọi yếu tố ngỗn ngang, bề bộn của cuộc đời...bao gồm những bi-hài; cao cả-thấp hèn; vĩ đai-tầm thường, lớn-nhỏ..Chính dung lượng phản ánh hiện thực rộng lớn giúp nhà văn miêu tả nhân vật và hoàn cảnh một cách đầy đủ, toàn diện, tỉ mỉ từ những trạng thái tâm hồn cũng như những mối quan hệ đa dạng, phức tạp khác.
Tiểu thuyết là thể loại đa dạng về mặt thẩm mĩ, có khả năng tổng hợp và thu hút vào bản thân nó những đặc trưng và sắc thái thẩm mĩ của nhiều loại hình nghệ thuật khác "Ðức tính căn bản của tiểu thuyết là ăn được mọi thứ, nó đồng hóa mọi loại tác phẩm khác vào mình" (Ph. Mác xô- Nhà nghiên cứu tiểu thuyết Pháp)
2. Truyện ngắn.
    Về từ nguyên, truyện ngắn có nghĩa là một tin tức mới mẻ, sốt dẽo. Ðây là loại văn xuôi tự sự có hình thức ngắn gọn. Tuy nhiên, đặc trưng của truyện ngắn không phải chỉ vì nó ngắn mà chủ yếu là cách nắm bắt và thể hiện hiện thực cuộc sống. Nhà văn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất nào đó trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Trong truyện ngắn, nếu nhà văn đặt quá nhiều vấn đề, câu chuyện sẽ dễ bị loãng. Tập trung về sự kiện, tập trung về chủ đề, về ấn tượng là yêu cầu của truyện ngắn.
Người viết truyện ngắn luôn luôn chú ý vào một vấn đề cơ bản với sự tỉ mỉ, chi tiết, loại bỏ những gì thiếu súc tích. Maugham cho rằng: truyện ngắn cần phải viết sao cho người ta không thể bổ sung thêm vào đó chút gì cũng không thể rút bớt ra chút gì.
Nhiều người cho rằng viết truyện ngắn đơn giản và dễ hơn tiểu thuyết. Ðiều này không chính xác. Thực ra, ở đây tùy thuộc vào thiên hướng, sở thích và khả năng của từng nhà văn. Ðạt đến đỉnh cao nghệ thuật viết truyện ngắn không phải là điều dễ dàng. Có nhà văn đã viết: Hôm nay tôi không có thì giờ để viết truyện ngắn vì đây là thể loại đòi hỏi người viết phải gói trọn những băn khoăn, ấn tượng...vào trong một dung lượng có hạn.
Do dung lượng ngắn, nhân vật của truyện ngắn thường không nhiều và cuộc đời của nhân vật cũng thường chỉ được miêu tả như một khoảnh khắc, mảnh nhỏ nhưng lại có ý nghĩa trong cả cuộc đời nhân vật nên nhịp điệu truyện ngắn khẩn trương, gấp rút, có nhiều yếu tố bất ngờ, chuyển đoạn đột ngột trong giới thiệu, bố cục, kết thúc câu chuyện.
3. Truyện vừa.
Truyện vừa là thể loại tự sự cỡ trung bình, xét về dung lượng, đứng giữa tiểu thuyết và truyện ngắn. Do chỗ giống nhau về phương pháp xây dựng điển hình cũng như hình thức biểu hiện nên ranh giới giữa truyện vừa và tiểu thuyết rất dễ lẫn lộn. Chẳng hạn A Q chính truyện, Xung kích, Ông già và biển cả...có người gọi là tiểu thuyết, có người chỉ cho là truyện vừa.
Ðiều phân biệt trước hết giữa truyện vừa và tiểu thuyết chủ yếu là dung lượng hiện thực, biểu hiện ở số lượng nhân vật, khuôn khổ cốt truyện và ngay cả ở số trang, thường một truyện vừa từ 150 trang trở lại. Tuy nhiên, điều cần chú ý là truyện vừa trần thuật cô đọng và súc tích hơn tiểu thuyết. Nếu như tiểu thuyết nặng về miêu tả thì truyện vừa chú ý nhiều hơn đến yếu tố thuật vì vậy dung lượng thường ngắn hơn. Như vậy, giữa truyện vừa và tiểu thuyết, ngoài dung lượng hiện thực được thể hiện còn có sự khác nhau ở nguyên tắc tái hiện hiện thực nữa.

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH


Chương 7 :
LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
  1. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
    1. Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người
    2. Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm thể hiện thế giới chủ quan
    3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình
    4. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình
    5. Lời văn trong tác phẩm trữ tình
  2. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH
    1. Dựa vào đặc điểm cảm xúc
    2. Dựa vào đối tượng miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ
  3. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH
    1. Đề thơ
    2. Dòng thơ, câu thơ
    3. Khổ thơ, đoạn thơ
    4. Tứ thơ, bài thơ
                                      -----------------------------------------------------
I. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
1. Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người
Nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng là sự biểu hiện thế giới chủ quan của con người trước cuộc đời. Tuy nhiên, do phương thức tổ chức, do kiểu tái hiện đời sống và do sự giao tiếp nghệ thuật khác nhau nên sự biểu hiện đó ở những loại tác phẩm văn học cũng khác nhau. Trong tác phẩm trữ tình; tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ,... được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào.
Trong ca dao:
Hôm qua tát nước đầu đình.
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải (sau này nhiều người cho là ca dao).
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Bốn câu thơ trên thể hiện tình cảm của người ra đi đối với quê hương, đối với người thương..., là nỗi buồn, là sự nhớ nhung lúc xa xôi cách trở. Ngoài những tình cảm, nỗi niềm đó, người đọc không biết gì cụ thể hơn về chàng trai và cô gái, về mối quan hệ cụ thể của hai người với nhau.
Bài Nguyên đán của Xuân Diệu cũng thể hiện rõ đặc điểm này:
Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đến đã lâu rồi
Từ độ yêu nhau hoa nở mãi.
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
Trong bốn câu thơ trên, không hề có mâu thuẫn, xung đột như trong kịch, cũng không có những biến cố, sự kiện, hệ thống sự kiện nào. Ðiều mà người đọc cảm nhận chủ yếu là niềm vui, hạnh phúc, là tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Như vậy, từ ca dao đến những tác phẩm thơ ca hiện đại, người đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội tâm, là thái độ xúc cảm và tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu, đầu tiên của tác phẩm trữ tình.
2. Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan.
Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì...Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Chế Lan Viên đã nói lên mối quan hệ này qua những câu thơ:
- Thơ, thơ đong từng ngao nhưng tát bể
Là cái cân nhỏ xíu lại cân đời.
- Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.
Người ta có thể bắt gặp một bài thơ miêu tả một bức tranh phong cảnh thiên nhiên. Trong bài Ðây thôn Vĩ Giạ của Hàn Mặc Tử, ngoài những nét chấm phá về một bức tranh thiên nhiên với những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế...là tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ.
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ơí đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
(Ðây thôn Vĩ Giạ. Hàn Mặc Tử.)
Có những bài thơ có ít nhiều sự kiện khá liên tục- đó là những câu chuyện được kể lại một cách ngắn gọn. Những sự kiện, biến cố ở đây không được miêu tả chi tiết, tỉ mỉ...mà được thể hiện hết sức cô đọng. Các bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính, Núi Ðôi của Vũ Cao, Bà má Hậu Giang của Tố Hữu...nằm trong trường hợp này. Qua bài Quê hương của Giang Nam, người đọc có thê kể một số nét chính về mối quan hệ giữa chàng trai và cô gái một cách khá liên tục nhưng chức năng chủ yếu của hệ thống sự kiện đó là để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, suy tưởng. Chúng làm cho tình cảm được bộc lộ dễ dàng, gợi cảm.
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm.
Có những lần trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Quê hương- Giang Nam.)
Mặc dù thể hiện thế giới chủ quan của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh động. Những chi tiết chân thật, sinh động trong đời sống dễ khêu gợi những tình cảm sâu sắc, mới mẻ. Có điều những chi tiết trong tác phẩm trữ tình bao giữ cũng hết sức cô đọng, súc tích.
Như vậy, tác phẩm trữ tình cũng phản ánh thế giới khách quan nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu hiện những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ...của con người.
3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình.
Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ðó là những nỗi niềm chủ quan thầm kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng mình lên thành người mang tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người, một thế hệ và cả những chân lí phổ biến...Người ta thường nói đến từ chân trời của cái "tôi" đến chân trời của cái "ta", "từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả" cũng trên ý nghĩa này. Biêlinnki đã diễn đạt điều đó bằng một câu nói hàm súc: "Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình và miêu tả mình - dù là miêu tả những nỗi đau của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ hoãng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại".
Tóm lại, trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ trực tiếp bộc lộ những tình cảm yêu thương, căm giận của mình trước hiện thực cuộc đời. Ởí đây, tình cảm riêng tư của nhà thơ bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng tạo nên giá trị của tác phẩm. Những tác phẩm trữ tình có giá trị được người đọc yêu mến xưa nay bao giờ cũng thắm đẫm suy tư và dằn vặt của cá nhân nhưng đồng thời cũng đánh động tình cảm, tâm trạng ...của cả một lớp người, một thời đại nhất định.
4. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình.
Nội dung tác phẩm trữ tình gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình (có người gọi là chủ thể trữ tình). Ở đây, cần phân biệt rõ 2 khái niệm: nhân vật trữ tình và nhân vật trong tác phẩm trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối tượng để nhà thơ miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm. Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Ðó là tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng...mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.
Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là những tình cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập vai.
5. Lời văn trong tác phẩm trữ tình.
Là hình thức của tác phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm tự sự và kịch đều mang tính chính xác, gợi cảm, hình tượng, hàm súc. Tuy nhiên, lời thơ cũng có những đặc điểm riêng.
Trước hết, đó là lời của chủ thể, thường bộc lộ trực tiếp sự đánh giá, nhận xét  về đối tượng, trực tiếp thể hiện cảm xúc ca ngợi, khẳng định hoặc phê phán, phủ định. Chính vì vậy, sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong tác phẩm trữ tình- chủ yếu là trong thơ- luôn luôn nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán của chủ thể trở nên nổi bật.
Lời văn trong tác phẩm trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm mạnh mẽ, những ý tập trung, hàm súc do đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù hợp với yêu cầu gây ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người khẳng định đặc điểm quan trọng nhất của lời văn trong tác phẩm trữ tình là  giàu nhạc tính. Nhạc tính này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác nhau. Trong thơ Việt Nam, tính nhạc thường được biểu hiện ở các mặt: sự cân đối, trầm bỗng, nhịp nhàng và trùng điệp.
II. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH.
Phạm vi của tác phẩm trữ tình rất rộng. Có thể kể đến các khúc ngâm, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc. Những đặc điểm chung của tác phẩm trữ tình được biểu hiện tập trung và tiêu biểu nhất là trong tác phẩm thơ trữ tình.
Tùy theo truyền thống thơ ca của từng nước, người ta có nhiều cách phân loại thơ trữ tình khác nhau. Ở phương Tây, có những cách phân loại:
1. Dựa vào đặc điểm cảm xúc:
Có thể chia thành bi ca, tụng ca, thơ trào phúng.
- Bi ca: là những bài thơ buồn và những nỗi buồn đó được nâng lên thành quan niệm, thành triết lí. Chẳng hạn, trong bài Hoa nở để mà tàn, Xuân Diệu viết:
Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để chia tan
Người gần để li biệt.
- Tụng ca là những bài thơ ca ngợi những sự kiện anh hùng, những chiến công của con người, những cảnh tượng hùng vĩ của non sông đất nước. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên, Tố Hữu có thể được coi là tụng ca.
- Thơ trào phúng là một dạng trữ tình đặc biệt, trong đó tác giả phủ nhận những điều xấu xa bằng một giọng văn châm biếm, mĩa mai, trào lộng. Nhiều bài thơ của Tú Xương, Tú Mỡ,... thuộc loại này.
2. Dựa vào đối tượng miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ.
Có thể phân thơ trữ tình thành các loại: trữ tình tâm tình, trữ tình thế sự, trữ tình công dân, trữ tình phong cảnh.
- Trữ tình tâm tình là những bài thơ gắn liền với những tình cảm trong mối quan hệ hằng ngày: tình yêu nam nữ, tình vợ chồng, tình cha mẹ, anh em...
- Trữ tình thế sự: là những bài thơ nghiêng về những xúc động về cuộc đời với tính chất "nhân tình thế thái"
Trong những thời kì lịch sử có nhiều biến đọng, nhiều giá trị chưa được xác định rõ ràng, thơ trữ tình thế sự gợi ý cho người sọc những suy tư, băn khoăn, trăn trở về thực trạng xã hội. Nhiều bài thơ của Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương...là những tiếng nói trữ tình thế sự có giá trị.
- Trữ tình công dân là những bài thơ nói lên những cảm xúc, tình cảm, suy tư của nhà thơ trong mối quan hệ với xã hội, với chế độ chính trị...Ở đây, nhà thơ lấy tư cách công dân để cổ vũ, ca ngợi sự nghiệp của nhân dân và lên án kẻ thù chung. Nhiều bài thơ trong văn học Việt Nam giai đoạn chống Pháp, chống Mĩ thuộc loại này.
- Trữ tình phong cảnh là những bài thơ nói lên những cảm xúc của con người với thiên nhiên: cây cỏ, núi non, sông biển, cảnh đẹp của quê hương, đất nước.
Những sự phân loại thơ trữ tình trên đây chỉ có tính chất tương đối. Thế giới nội tâm của con người vô cùng phong phú, phức tạp, tinh tế và có trăm nghìn mối quan hệ khó có thể phân biệt một cách rạch ròi. Trong trữ tình tâm tình cũng có trữ tình phong cảnh, trữ tình thế sự, trữ tình công dân và ngược lại. Ơí đây, sự phân loại chỉ nhằm giúp người đọc nhân ra cảm hứng chủ đạo, khuynh hướng nghệ thuật của nhà thơ.
III. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH.
1. Ðề thơ.
Nơi thể hiện tinh thần cơ bản của nội dung bài thơ, gợi ý cho người đọc hiểu chủ đề chính của bài thơ, giúp họ nhớ và phân biệt với hững bài thơ khác. Cũng có khi có những bài thơ không có đề (vô đề). Ơí đây, có thể tác giả muốn để người đọc, qua nôi dung bài thơ, suy ngẫm và tưởng tượng mà tự hiểu. Ðề thơ có thể chỉ nên được coi như một định hướng để hiểu đúng bài thơ.
2. Dòng thơ, câu thơ.
Dòng thơ là đặc điểm quan trọng nhất của sự tổ chức ngôn ngữ thơ. Trong các thể thơ cách luật, số chữ mỗi dòng có sự qui định chặt chẽ. Ơí thơ tự do, không có sự qui định đó nhưng thường mỗi dòng thơ cũng không quá 12 chữ.
Câu thơ là dòng thơ diễn đạt trọn vẹn một ý. Thông thường, mỗi câu thơ là một đìng thơ. tuy nhiên, có khi hai ba dòng thơ mới thành một câu thơ:
Ơi! Kháng chiến, mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường. (Chế Lan Viên)
3. Khổ thơ, đoạn thơ
Sự kết hợp của các câu thơ thành từng nhóm thống nhất với nhau về vần, nhịp, cú pháp, ngữ điệu. Mỗi khổ thơ được kết thuc bằng một khoảng nghỉ dài. Trong những bài thơ ngắn, mỗi khổ thơ có thể là một đoạn thơ nhưng trong nhiều trường hợp, nhiều khổ thơ mới thành một đoạn thơ.
Ðoạn thơ là sự tập họp nhiều câu thơ chằm diễn đạt một ý tương đối trọn ven, hoàn chỉnh. Sự phân đoạn một bài thơ chủ yếu dựa vào ý chứ không phụ thuộc vào vần, bhịp, cú pháp như khổ thơ. việch phân đoạn dựa vào ý thơ là một yếu tố khó xác định nên các nhà nghiên cứu có thể có sự phân đoạn các bài thơ cụ thể không giống nhau.
4. Tứ thơ, Bài thơ.
Tứ  thơ  là ý lớn xuyên suốt bài thơ nhưng ý ấy không được nói thẳng ra mà hòa quyện, biến hóa qua hình tượng có nhiều tìm tòi, sáng tạo của nhà thơ. Nói cách khác, một bài thơ có tứ là một bài thơ có tìm tòi, sáng tạo về mặt thể hiện ý của toàn bài một cách mới mẻ, thú vị. Tứ thơ thể hiện đậm nét cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ... của nhà thơ.
Bài thơ là một tác phẩm hoàn chỉnh, có cấu trúc nội tại, là sự tổng hợp từ đề thơ, dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, tứ thơ. Mỗi bài thơ có độ dài ngắn khác nhau và dĩ nhiên giá trị của mỗi bài thơ phụ thuộc vào nội dung tư tưởng va hình thức nghệ thuật của nó chứ không phải ở chỗ ngắn dài.